>
kết quả từ 1 tới 1 trên 1

Ðề tài: Shichifukujin - Bảy vị thần phước đức

  1. #1
    Ronin
    A Châu's Avatar


    Thành Viên Thứ: 192493
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: TP Hồ Chí Minh
    Tổng số bài viết: 330
    Thanks
    41
    Thanked 744 Times in 208 Posts

    Shichifukujin - Bảy vị thần phước đức

    Sau những năm loạn lạc dài đằng đẵng mà người ta gọi là “ Thời Chiến quốc ” (Sengoku jidai, 1477-1573), dân chúng mong ước thái bình cùng những điều may mắn tốt lành trong cuộc sống. Từ nguyện vọng đó, nước Nhật có tục thờ Shichifukujin. Họ tin rằng những vị thần Shichifukujin xuống cõi trần trong đêm Giao thừa và ở lại trong ba ngày đầu của Năm Mới.

    Bởi vậy quà cho trẻ em là hình của các vị thần này ngồi trên chiếc thuyền buồm Takarabune (Bửu thuyền, tức là “ Thuyền chở của quý ”) bằng tranh vẽ, hoặc làm bằng gỗ nhỏ nhắn, lót dưới gối khi trẻ em nằm mơ “ thấy ” giấc mộng đầu năm (hatsuyume). Trên thuyền có ghi bài thơ đọc xuôi đọc ngược gì cũng giống nhau (tiếng Nhật gọi những bài như vậy là kaibun, tức là “ hồi văn ”) :

    “ Nagaki yo no/tô no nemuri no/mina mezame/nami nori fune no/oto no yoki kana ”.

    Tạm dịch là:

    Đêm dài ngủ giấc say sưa / Thuyền ta sóng vỗ thấy người vui sao!

    Điểm thú vị là lúc ban đầu Bảy vị thần Shichifukujin người ta cho các em bé tấm hình nhỏ bé, lót dưới gối khi em bé ngủ, hy vọng em bé sẽ nằm mơ thấy giấc mộng đẹp đầu năm, nhưng dần dần, Shichifukujin đã trở thành biểu tượng chiêm bái và tượng thờ để đi hành hương (Shichifukujin meguri) đến các đền chùa vào Năm Mới của tất cả mọi người !

    Khi đi hành hương người ta mang theo vật hiến nạp. Điều quan trọng là các vật hiến nạp không được chênh lệch nhau lắm, nếu không thì những điều may mắn sẽ khác nhau ! Ở vùng Tokyo, người ta đi hành hương ở nhiều chùa và đền, chẳng hạn ở Fukagawa và Kameido thuộc Koto-ku, hoặc Kichijoji, v.v. Tục lệ này bắt đầu từ đầu thời Edo (1600-1868) và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

    Bảy vị thần Shichifukujin là:

    1. Ebisu


    Ebisu (Ebisuten)


    Thần Ebisu (Huệ-tỷ-thọ) là vị thần độc nhất có gốc ở Nhật trong Shichifukujin. Thần Ebisu là con của Izanagi và Izanami, theo Thần đạo là hai người sáng lập ra nước Nhật và biểu tượng của thuần chân và mang lại điều tốt lành. Thần Ebisu nguyên là Hiruko-no-Mikoto ở đền Nishinomiya, thuộc huyện Hyôgo, thần phù hộ người đi biển, ngư nghiệp và thương nghiệp.

    Ebisu cai quản các ngư dân và phù hộ họ với những mảng cá đầy khoang. Vì thần Ebisu có nguồn gốc từ biển, thần còn giúp cho người đi biển được an lành. Ở miền quê, vị thần này coi quản ruộng đồng và tất cả những gì có dính líu đến nghề nông. Được xem là vị thần được mến chuộng nhất trong bảy vị thần, nông gia và doanh gia xem Ebisu như thần hộ mạng.

    Biểu tượng của thần Ebisu là một con cá cực lớn, thường là cá hồng (tai), cá chép (koi), cá cá rô biển (suzuki), hoặc cá tara (có người gọi là “cá tuyết” theo chữ Hán trong tiếng Nhật) – một loại cá ở biển Bắc. Thần Ebisu thường buộc con cá hồng bằng sợi dây dừa rồi đeo ở tay mặt trước ngực, hoặc cầm dây buộc cá bằng tay trái. Thần có nụ cười hồn nhiên, bộ râu cằm cạo nhẵn nhụi, đội mũ như người đi săn.

    2. Daikokuten


    Daikoku (Daikohuten)


    Daikokuten (Đại Hắc Thiên) du nhập sang Nhật Bản từ Trung Hoa vào thế kỷ IX. Do tiếng Phạn là Manhakala, theo Mật giáo Daikokuten là hoá thân của Tự Tại Thiên, tức là thần thủ hộ của Phật giáo Đại Thừa có gốc từ Ấn Độ giáo. Thần Daikokuten kính yêu tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) và thích ăn uống. Ở Nhật Bản, lúc ban đầu Daikokuten là Thần Chiến đấu và Thần Phẫn nộ, sau đó trở thành Thần Bếp, nói nôm na là “ Ông Táo trong bếp ”. Thường thường, ta thấy thần đầu chít khăn vải, đứng trên bồ lúa; tay trái mang một cái túi lớn, tay mặt cái vồ nhỏ bằng gỗ (uchide-no-kozuchi).

    Thần Daikokuten còn giúp người ta được mùa màng, hoặc may mắn khi buôn bán, làm ăn.

    3. Bishamonten


    Bishamon (Bishamonten)


    Bishamonten (Tỳ Sa Môn Thiên), viết tắt là Bishamon, là một vị thần Phật giáo Đại Thừa có gốc từ Ấn Độ giáo. Tên tiếng Phạn là Vaisravana, thần Bishamonten là một của Tứ Thiên Vương hay Thập Nhị Thiên. Thần có dáng vẻ phẫn nộ, bận áo giáp như võ thần, một tay cầm bửu tháp (tahoto, đa bửu tháp) bên tay mặt và cái mâu bên tay trái. Thần Bishamonten ở Bắc phương của Tu Di Sơn, lo coi giữ Bắc phương Thế giới và là người che chở cho lẽ phải và quyền uy. Tên thần còn được dịch là Đa Văn Thiên.

    Bishamonten còn là thần tài (tượng trưng bởi bửu tháp) và thần của chiến tranh (tượng trưng bởi cái mâu). Thần mang lại điều may trong chiến loạn cũng như trong thái bình. Thần lo giữ Phật Giới và hoà bình trên thế gian. Trong chùa, thần chia của cải và điều may cho những người nghèo hoặc người xứng đáng. Nếu người ta đã ăn nên làm ra, thần giúp họ giữ gìn những cái gì họ đã có được. Điều đáng tiếc là trên thế gian có lắm người không xứng đáng, thần thường dùng sức mạnh để phá huỷ tài sản của họ.

    4. Benzaiten


    Benten (Benzaiten)


    Benzaiten (Biện Tài Thiên) hay Benten (Biện Thiên) là nữ thần duy nhất trong Shichifukujin, thường cầm cây đàn tỳ bà (biwa). Thần thường ngồi hay đứng trên lá sen, hoặc cỡi bạch long (rồng trắng), rắn biển, hay rắn thường. Những sinh vật này thường ghen nhau, bởi vậy các đôi nam nữ thường tránh viếng nữ thần.

    Thần Benzaiten là một trong ba nữ thần Ấn Độ, tên tiếng Phạn là Sarasvati. Benzaiten là thần trông coi về âm nhạc, tài biện luận và ăn nói (biện tài), phúc trí, trường thọ, tai qua nạn khỏi, và chiến thắng. Mặc dù thần Sarasvati vốn là thần Ấn Độ giáo, thần Benzaiten được tiếp thu vào Nhật Bản cùng với Phật giáo. Những nghệ nhân, ca sĩ, cùng những người làm quán ăn cũng thường thờ nữ thần. Thỉnh thoảng thần Benzaiten được hiện ra với nhiều tay (bốn tay, sáu tay hay tám tay) và có thể đàn hay hoạ cùng một lần.

    5. Fukurokuju


    Fukurokuju(Fukurokujujin)


    Fukurokuju (Phúc Lộc Thọ), hay Fukurokujujin (Phúc Lộc Thọ Thần), là một vị thần của Lão giáo (Đạo giáo). Thần Fukurokuju thường biến hoá phép lạ, đặc biệt về sống lâu và phát tài. Ngoài ra, người ta cho Fukurokuju là thần tài, thần của trí tuệ, của những điều may mắn, sức khoẻ, sinh lực và sống lâu. Thần có cùng thân hình với Jurojin, và hai thần na ná giống nhau.

    Thần Fukurokuju mặc áo Tàu dài và rộng, tay chống gậy. Trên gậy thần buộc cuốn kinh (makimono) ghi những bí truyền về sống lâu và trí khôn của nhân loại. Tay trái thần cầm cái quạt xếp (ogi). Thần trán rộng, đầu hói đội mũ văn nhân, bộ râu để dài và bạc, tượng trưng cho cao niên và trí tuệ. Bên cạnh thần Fukurokuju thường có nai (shika), rùa (kame), và hạc (tsuru). Những sinh vật này tiêu biểu cho trường thọ.

    6. Jurojin


    Jurojin


    Jurojin (Thọ Lão Nhân), người Trung Hoa vào khoảng đời Nguyên Hữu (1086-1093) thời Tống. Dáng vóc bên ngoài của thần Jurojin trông giống như thần Fukurokuju : một ông lão đầu dài, râu dài và bạc phơ, tay cầm trượng, trên đầu trượng có cuốn kinh ghi về trí khôn nhân loại và bí quyết sống lâu. Thần là tiêu biểu của trường thọ, thần tài, của trí tuệ và sức khoẻ. Thần thường có những sinh vật tượng trưng cho sống lâu như nai, rùa, hạc đứng chung quanh.

    Jurojin thường được xem giống như Fukurokujin là thần tài.

    7. Hotei


    Hotei (Hoà thượng Bố Đại)


    Hotei (Bố Đại) là một Thiền tăng đời Hậu Lương. Tên là Khế Tỷ, hiệu là Trường Đinh Tử hoặc Định Ứng Đại Sư, ngụ ở Tứ Minh Sơn. Hoà thượng Hotei có dung mạo phúc đức, thân hình to béo, lúc nào cũng mang cái đãy, bụng thường để lộ ra ngoài khi đi khất thực. Ta thường gọi hoà thượng là “ Ông Phật cười ”. Người ta tin Hoà thượng Hotei là hoá thân của Di Lặc Bồ Tát (Miroku Bosatsu).

    Giống như Daikoku, Hotei là thần của dồi dào và may mắn. Thần cũng là thần cười và vui vẻ với những gì mình đang có. Bởi vậy, thần là thần viên mãn trong mậu dịch, như ta thường thấy tượng của thần để trước cửa hàng quán. Thần Hotei thường được người ta để thờ là một ông Phật cười với cái bụng to lớn để nói lên cái tâm rộng rãi của thần. Thần Hotei thường cầm quạt và mang trên vai một đãy gạo. Gạo trong đãy của thần không bao giờ cạn vì lòng độ lượng vô hạn của thần Hotei. Có khi thần ngồi trên xe kéo bởi các trẻ đã biết lòng vị tha của thần.

    Qua phong tục Shichifukujin, chúng ta thấy những nét độc đáo sau đây của văn hoá Nhật Bản :

    1. Người Nhật tiếp thu rất nhiều văn hoá nước ngoài. Qua Shichifukujin, ngoài văn hoá Nhật Bản, ta thấy họ tiếp thu văn hoá Trung Hoa và văn hoá Ấn Độ. Chúng ta đã biết thần Ebisu có gốc Thần đạo của Nhật Bản, rồi chúng ta cũng có Fukurokuju, Jurojin, và Hotei từ Trung Hoa ; sau đó lại có Daikokuten, Bishamonten và Benzaiten từ Ấn Độ. Trong những vị thần đi từ Trung Hoa, thần Hotei có gốc Phật giáo, Fukurokuju và Jurojin là hai vị thần Lão giáo. Chúng ta cũng nên để ý điểm khác nhau giữa thần Bishamonten với hai vị thần Daikokuten và Benzaiten : Bishamonten là thần của Phật giáo, còn Daikokuten và Benzaiten là thần của Ấn Độ giáo. Cũng nên nhắc lại Benzaiten là một nữ thần.

    2. Vì Shichifukujin bắt nguồn từ thế kỷ 16, ta thấy có phảng phất ít nhiều ảnh hưởng của thời đó. Ví dụ, Bishamonten (Tỳ Sa Môn Thiên) là Thần Chiến tranh của daimyo lừng danh Uesugi Kenshin (1530-1578) vùng Echigo vào “ Thời Chiến Quốc ”. Kenshin vừa giỏi về binh lược lại giàu lòng nghĩa hiệp. Lúc tranh hùng với Takeda Shingen (1521-1573), một võ tướng nổi tiếng ở Shinano và Kai, Kenshin thấy quân của Shingen bị phong toả muối bởi một đối thủ khác, ra lệnh lấy muối tiếp viện cho quân của Shingen. Kịp đến khi nghe tin địch thủ là Shingen chết, người ta nói Kenshin đã khóc rống lên. Bởi vậy, thiên hạ mới đồn Kenshin là hoá thân của thần Bishamonten. Phải chăng Bishamonten đã được đưa vào “ Bảy vị thần phước đức ” Shichifukujin vì dân chúng cảm phục và luyến tiếc Kenshin chẳng bao lâu sau khi vị tướng lãnh tài ba qua đời ?

    3. Cuối cùng, như chúng ta đã thấy, “ Bảy vị thần phước đức ” Shichifukujin ra đời ngay sau lúc nước Nhật Bản vừa bước qua một cuộc chiến dài đằng đẵng, không tiền khoáng hậu, vào cuối thế kỷ 16. Dân chúng mong ước an cư lạc nghiệp và những gì may mắn tốt lành trong cuộc sống. Nói một cách khác, nguyên nhân của sự hình thành Shichifukujin là những khổ đau trong chiến tranh. Sau Thế chiến thứ hai, nước Nhật Bản lại tạo được “ kỳ tích ” khác ngay từ điêu tàn của chiến tranh. Lòng lạc quan và tin tưởng ở ngày mai thể hiện qua khi đi hành hương ngày đầu Xuân đến “ Bảy vị thần phước đức ” Shichifukujin có thể nói là một trong những điểm son của văn hoá Nhật Bản.

    VĨNH SÍNH
    Giáo sư, Đại học Alberta, Canada
    Theo ERCT
    Chữ ký của A Châu

  2. The Following 2 Users Say Thank You to A Châu For This Useful Post:

    ANNY_3003 (10-01-2014), dinhlata93 (11-01-2014)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •