Họ đưa nhau về đây hồi tháng Chín. Khi những người dân thủ đô trốn lên đây tránh nắng rời bỏ vùng này để về lại dưới đồng bằng, thì những trận mưa dầm lạnh lẽo thường có vào buổi đầu thu bắt đầu dồn dập kéo về. Nhưng một hôm, trước lúc hoàng hôn, chim chóc bỗng vui vẻ hót vang và bầu trời cao không gợn một bóng mây, Kyôkô bèn xuống thăm mảnh vườn rực sáng ánh nắng chiều và ngắm những luống rau mướt xanh như ngọc. Rồi nàng ngước mắt lên, nhìn theo những đám mây hồng đang thong thả trôi xuôi trên những đỉnh núi xa xa. Mải ngắm những bóng mây trôi, nàng không nghe thấy những tiếng gọi gắt gỏng của chồng từ trên lầu vọng xuống. Đến khi nghe thấy, nàng vội chạy lên, thậm chí còn chưa kịp phủi sạch đất cát bám trên tay.
- Tôi gào đến khản cả tiếng. Thế mà cô không nghe thấy à?
- Anh thứ lỗi, em đang mải nghĩ.
- Vứt quách cái mảnh vườn ấy đi! Kẻo không e có ngày tôi phải đến tắt thở vì gọi cô. Rồi mai mốt tôi không còn biết là cô đang ở đâu và đang làm gì nữa.
- Em chỉ quanh quẩn dưới vườn chứ có đi đâu đâu. Nhưng nếu anh muốn, em sẽ không xuống dưới ấy nữa.
Chồng nàng đã bình tâm lại.
- Em có nghe thấy tiếng chim sơn tước vừa hót không?
Anh gọi nàng chẳng qua chỉ để hỏi chuyện đó. Giữa lúc vợ chồng đang trò chuyện thì trong cánh rừng thưa cạnh nhà, chú sơn tước nọ lại cất tiếng hót lanh lảnh. Dải rừng lúc này đang cắt hình rõ nét trên nền trời chiều trong vắt, Kyôkô vẫn còn nhớ như in tiếng hót của chú chim sơn tước này.
- Ta sẽ sắm một cái chuông con- để anh gọi em dễ hơn. Tạm thời, em sẽ để bên đầu giường anh một món đồ gì đó. Khi nào cần đến em, anh cứ ném nó qua cửa sổ.
- Em định bảo anh vứt hết cốc chén từ trên gác này xuống chứ gì? Nói dễ nghe nhỉ?
Chồng nàng dẫu sao cũng không cấm nàng chăm bón mảnh vườn nhà.
Mãi đến lúc mùa đông khắc nghiệt và dài lê thê của vùng rẻo cao qua đi và mùa xuân bắt đầu sang, Kyôkô mới nghĩ ra cánh giúp chồng nhìn thấy mảnh vườn rau bằng chiếc gương tay nhỏ.
Chao ôi, nàng sung sướng biết bao khi chiếc gương con bình dị ấy đã làm sống lại trước mắt người chồng đau yếu cả một thế giới cây cối tươi non mơn mởn trong dịp đầu xuân! Giờ đây, chồng nàng thậm chí còn nhìn thấy cả việc Kyôkô lần bắt từng con sâu hại lá cho mỗi cọng rau. Nhưng dáng dấp của những con sâu ấy ra sao thì anh không không thể nhìn thấy được, nên Kyôkô thường phải mang lên tận trên gác chỉ cho chồng. Về sau, anh còn có dịp ngắm vợ cuốc lật đất vườn.
-Trong gương, anh thấy rõ cả lũ giun, lúc em cuốc lật đất lên,-anh nói thế với Kyôkô khi nàng lên gác. Thường thường, khi bóng nắng đã đổ dài trên mặt đất, thình lình nàng bỗng cảm thấy có một luồng ánh sáng rực rỡ rọi thẳng vào mặt mình. Nàng ngước nhìn lên thì thấy anh đang nằm trên gác, đặt chếch mặt chiếc gương lên để phản chiếu vầng mặt trời ngả bóng, rồi rọi thẳng xuống chỗ nàng. Anh bắt nàng may một chiếc quần rộng ống bằng một mảnh vải thô, còn giữ lại được từ những năm theo học ở đại học. Anh rất thích thú được ngắm nàng diện chiếc quần rộng ống mau xanh lơ điểm lấm tấm những nốt tròn trắng muốt ấy, để cuốc đất dưới vườn.
Kyôkô biết anh đang ngắm nàng trong gương, nhưng vì mải làm, nên lắm lúc nàng đã quên bẵng đi. "Mình đã thay đổi quá nhiều kể từ độ mới cưới nhau, hồi ấy, thậm chí mình còn ngượng ngập mỗi lần phô ra hai cánh tay để trần đến tận khuỷu"-Kyôkô hồi tưởng lại và tim nàng ấm áp hẳn lên.
Kể từ khi nước Nhật bắt đầu nếm mùi chiến bại, nàng không còn ngó ngàng gì đến phấn son bao giờ. Tiếp đó, nàng đâm ngượng mỗi lần ngồi vào bàn trang điểm vì chồng đang ốm đau, nên mãi sau ngày đi bước nữa, nàng mới thực sự bắt đầu mó đến phấn sáp, lược gương. Nàng nhận thấy son phấn đã làm nhan sắc nàng hoàn toàn đổi khác. Nàng thực sự trở thành một giai nhân khi vừa điểm trang xong. Cho nên, nàng tin rằng người chồng mới đã thực lòng thán phục nhan sắc nàng vào ngày đầu tiên, khi chỉ còn lại một mình hai vợ chồng.
Giờ đây Kyôkô không còn e thẹn nữa mỗi lần ngồi ngắm gương mặt mình trong gương sau lúc tắm gội. Nàng thấy mình xinh đẹp. Nhưng người chồng xấu số đã dạy cho nàng một cách cảm nhận về nhan sắc được phản chiếu trong gương, vốn khác hẳn với cách cảm nhận thường có của nhiều người, và nàng vẫn giữ gìn nó cho đến tận bây giờ. Giờ đây, chẳng phải nàng ngờ vực gì vẻ đẹp mà mình nhìn thấy trong gương. Nhưng dẫu sao nàng vẫn tin chắc cái được phản chiếu trong gương kia là một thế giới hoàn toàn khác.
Tuy thế, khi nhìn mình, rồi sau đó ngắm kỹ bóng mình phản chiếu trong gương, dẫu sao nàng vẫn không nhận thấy có một sự khác biệt nào, tương tự như sự khác biệt giữa bầu trời xám ngoét bên kia cửa sổ với bầu trời lấp lánh sắc bạc trong gương. Có lẽ, không thể cắt nghĩa điều đó đơn thuần bằng sự khác nhau về khoảng cách. Mà còn phải lưu ý đến một nhân tố rất hệ trọng nữa: niềm ham mê cháy bỏng, và tâm trạng ngao ngán của chồng nàng vốn bị bệnh tật giữ chịt trên giường. Chắc hẳn anh đã cảm thấy nàng xinh đẹp biết dường nào khi ngắm nàng trong chiếc gương con, lúc nàng làm lụng dưới vườn! Giờ đây, Kyôkô không còn cách nào để biết đích xác chuyện ấy nữa. Nhưng hồi chồng nàng sống, nàng vẫn chưa hiểu ra điều đó.
Cả hình ảnh của chính nàng mà người chồng đau ốm từng nhìn thấy trong gương, cả sắc xanh của những đóa thủy tiên, cả màu trắng mát của những bông huệ nước, và bầy trẻ thôn quê nô đùa bên rìa ruộng, cả vầng mặt trời buổi sáng nhô lên trên những rặng núi tuyết xa xa...Hết thảy những thứ ấy, Kyôkô không những cố làm sống lại kí ức, mà còn nhớ nhung tha thiết đến nó, một thế giới khác hẳn mà xưa kia vốn là của riêng nàng và người chồng xấu số của nàng. Nàng cố nén cái tình cảm ấy trong lòng, một tình cảm mà bất cứ lúc nào cũng được bùng lên thành một nỗi khát khao mãnh liệt, vì không muốn người chồng hiện nay lo lắng thêm cho nên nàng buộc mình thường phải nghĩ đến cái tình cảm ấy như một cái gì đó rất đỗi xa xăm và chỉ chuyên dành cho một thế giới khác, không phải là cái thế giới đang hiện hữu.
Vào một sáng tháng Năm, Kyôkô bỗng được nghe trên máy thu thanh những tiếng chim hót của chim chóc sống trong rừng. Đó là một buổi truyền thanh trực tiếp từ một vùng rẻo cao, kế bên ngôi làng trong đó người chồng trước của nàng giã từ cuộc đời. Tiễn chồng đi làm xong, nàng liền lôi ngay trong ngăn kéo chiếc bàn trang điểm ra cái gương tay và bắt đầu ngắm bầu trời quang đãng trong gương. Rồi nàng ngắm cả khuôn mặt mình in hình trong ấy. Và thình lình nàng bỗng phát hiện ra một điều kì lạ: thì ra ai cũng có thể nhìn thấy mặt mũi của chính mình bằng cách ngắm nó trong gương; ngoài cách ấy ra, không còn cách nào khác nữa hết. Từ đó trở đi, ngày nào Kyôkô cũng phải ngắm nghía và sờ nắn khuôn mặt của chính mình, để biết đích xác gương mặt in trong gương kia cũng chính là khuôn mặt mà mắt nàng nhìn thấy ngày ngày, không cần đến một chiếc gương nào. Nhưng vì lẽ gì mà con người do trời sinh ra lại bị tước đoạt mất cái bẩm năng biết thiết cốt là tự nhìn thấy được gương mặt của chính mình?
"Nếu có được bẩm năng ấy, con người chắc sẽ hoàn toàn bối rối hoặc hoàn toàn mất trí chăng?"-Nàng tự hỏi.
Không, chắc hẳn từ buổi sơ khai, con người đã không được trời ban cho cái diễm phúc được nhìn thấy gương mặt chính mình. Ấy thế nhưng cái diễm phúc ấy có lẽ chuồn chuồn và bọ vái (1) cũng lại có được.
Chẳng lẽ con người cần có gương mặt chỉ là để cho người khác ngắm nghía hay sao? Rõ ràng ở đây có một cái gì na ná như là những nguồn khêu gợi yêu đương...
Nàng gạt chiếc gương tay nhỏ ấy ra xa và bỗng bất thần nhận thấy màu sắc của gỗ dâu của chiếc bàn trang điểm chẳng hòa hợp tí nào với những đường nát chạm trổ theo kiểu Kamakura (2) của chiếc gương tay nhỏ. Chiếc gương ngày trước, chiếc đã bị thiêu cháy cùng với thi thể chồng nàng, và cái bàn trang điểm này như thể hóa thành một quả phụ. Khi trao chiếc gương tay ấy và chiếc gương con gắn trong cái xắc nhỏ cho chồng, nàng đã mang đến chẳng những điều lành, mà cả điều dữ nữa. Vì ngày ngày anh cũng nhìn thấy trong hai chiếc gương ấy cả sắc mặt của chính mình, và nhận ra hết cái triệu chứng này cho đến triệu chứng khác của căn bệnh đang tiến triển rõ trên khuôn mặt và những dấu hiệu của cái chết đang đến gần. Nếu có một kiểu mưu sát bằng tâm lí nhờ sử dụng gương soi , thì cái chết của anh ấy phải chăng là do chính nàng gây nên? Trước đó khá lâu nàng đã nghĩ đến cái điều giữ ẩn giấu trong chiếc gương và thậm chí nàng đã mưu toan đem nó đi, nhưng chồng nàng cứ khăng khăng cự tuyệt.
- Em định tước đoạt niềm vui được nhìn ngắm mọi thứ xung quanh,-chồng nàng bảo,-nhưng anh thì chừng nào còn sống, anh còn muốn được hưởng cái thú thưởng ngoạn hết thảy những gì mắt mình có quyền được nhìn thấy.
Anh đã hi sinh đời mình để đem lại sự sống cho cái thế giới hiện hữu trong gương. Anh đã mê mải ngắm trong gương bóng vầng trăng in hình trong vũng nước mưa đọng lại dưới sân. Và kỉ niệm về vầng trăng soi bóng dưới đáy nước ấy-phải chăng đó chỉ là hình bóng phản chiếu trong gương?-Kyôkô vẫn còn giữ mãi trong lòng cho đến tận bây giờ.
- Chỉ những ai khỏe mạnh mới có được tình yêu lành mạnh,-người chồng sau của nàng thường bảo vậy, và lần nào nghe nói thế, Kyôkô cũng ngượng nghịu gật đầu, nhưng ở đâu đó trong đáy lòng mình, nàng hoàn toàn không chấp nhận điều này. Lúc đầu, nàng tự trách mình: sao lại dại dột đi chối bỏ những dịp gần gũi với người chồng đau yếu? Vì dẫu có làm thế chăng nữa cũng đâu cứu sống được anh ấy! Nhưng những ý nghĩ ấy dần dà đã biến thành những hoài niệm về một mối tình sầu muộn, nên về sau nàng mới nghĩ rằng: Khi mà nó đã trở thành hoài niệm, thì trong lòng nàng vẫn dào dạt yêu đương như xưa và nàng không còn tự quở trách mình.
Còn về người chồng mới?...Có phải vì quá nông nổi, nên anh khó lòng thấu hiểu tình cảm yêu đương của người phụ nữ chăng?!
-Tại sao một người đầy nhân dức như anh mà lại nỡ bỏ rơi người vợ cũ?-Có lần Kyôkô ướm hỏi anh như vậy.Anh ta nín thinh. Kyôkô sở dĩ chịu lấy anh ta chẳng qua chỉ vì đã nghe theo lời khuyên ân cần của anh trai người chồng cũ. Trước ngày cưới, nàng và người anh trai ấy thường xuyên gặp gỡ nhau trong suốt bốn tháng ròng. Chồng mới của nàng hơn nàng mười lăm tuổi.
Khi Kyôkô bắt đầu biết mình sắp có con, nàng đã hết sức hoảng sợ. "Em sợ lắm, em sợ lắm",-nàng vừa nhắc đi nhắc lại câu ấy, vừa ôm ghì lấy cổ chồng. Khổ sở cho những cơn buồn nôn của thời kì thai nghén hành hạ, đầu óc nàng như mụ hẳn đi. Nàng thường chạy chân trần ra sân, vơ lấy một nắm lá thông, rồi cho vào miệng ngấu nghiến nhai. Khi sắp xếp đồ lề cho cậu con chồng đi học, nhiều hôm, nàng đã cho vào cặp nó những hai hộp đồ ăn điểm tâm, mà chẳng hiểu sao trong cả hai hộp chỉ thấy toàn cơm...Có lúc nàng bỗng nhìn chằm chằm vào cái ngăn kéo của chiếc bàn trang điểm, và bất thần có cảm giác chiếc bàn trở nên trong suốt, đến nỗi nàng có thể nhìn rõ được cả chiếc gương tay với cái khung chạm trổ theo lối Kamakura, nằm bên trong. Có lần, đang nửa đêm nàng bỗng thức giấc và ngồi dậy nhìn chòng chọc hồi lâu vào khuôn mặt người chồng đang ngủ cạnh nàng. Kinh hoàng với cái kiếp phù sinh của con người, nàng cởi dải thắt lưng chiếc kimônô mặc ngủ ra: có lẽ nàng định thít chặt lấy cổ người chồng đang ngủ. Và bất thần nàng bỗng trào nước mắt. Người chồng tỉnh giấc, âu yếm dỗ dành nàng, rồi buộc giúp lại dải thắt lưng. Kyôkô run bắn người lên vì cảm thấy lạnh, tuy rằng đang là giữa mùa hè và đêm đêm thậm chí trời vẫn còn oi bức như đang lúc giữa trưa.
-Phải nghĩ đến đứa con trong bụng chứ, Kyôkô-người chồng vừa lay vai nàng, vừa dỗ dành âu yếm.
Thầy thuốc khuyên nên đưa ngay nàng vào bệnh viện. Kyôkô từ chối nhưng rồi cuối cùng người ta đã thuyết phục được nàng.
- Được, em sẽ vào, nhưng trước lúc vào, hãy để cho em về thăm lại thầy mẹ vài hôm,-nàng bảo chồng.
Người chồng đích thân đưa nàng đi.
Hôm sau, nàng đã một mình lên ngay cái nơi mà nàng và người chồng cũ đã từng chung sống trước đây. Đang là đầu tháng Chín-hồi vợ chồng đưa nhau lên đây họ cũng bị trễ mất mươi hôm. Lúc ngồi trên tàu, nàng lại bị những cơn buồn nôn tai ác và những cơn nhức đầu như búa bổ làm tình làm tội. Thậm chí nàng lo sợ phải bỏ dỡ giữa chừng cuộc hành trình nàng từng ao ước này. Nhưng rốt cục nàng cũng đã đến nơi, và khi bước xuống sân ga, hít thở một hơi dài đầy ***g ngực làn không khí tươi mát ở đây, nàng vụt cảm thấy dễ chịu. Nàng bừng tỉnh lại-như thể cái bóng ma vẫn ám ảnh nàng lâu nay phút chốc đã tan biến hoàn toàn. Kyôkô dừng lại và ngước nhìn những ngọn núi chung quanh, lòng dào dạt một cảm xúc khác lạ. Những rặng núi xanh thẫm cắt hình rõ rệt trên nền trời. Kyôkô cảm thấy như được sống lại giữa một thế giới sinh động. Lau khô những giọt nước mắt nóng bỏng ràn rụa trên đôi mắt mình, nàng thong thả tiến về phía ngôi nhà hai vợ chồng nàng từng chung sống bên nhau. Từng dải rừng thưa đã thẫm bóng trong bầu trời đỏ rực buổi chiều hôm, tiếng chim sơn tước rít rít lại vọng đến tai nàng y hệt như ngày chồng nàng còn sống.
Ngôi nhà đã có người khác ở: trong khung cửa sổ trên gác đang bay phất phơ một tấm rèm bằng đăngten trắng. Không dám đến gần, Kyôkô chỉ ngước nhìn lên và bất thần buột ra một câu nói khẽ, mà hẳn chồng nàng cũng phải ngạc nhiên:
- Ta sẽ làm gì hả anh, nếu đứa bé em đang mang trong bụng nó giống anh?
Và lòng thanh thản, Kyôkô quay gót trở lại nhà ga.
NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG dịch
(Đốm lửa lạc loài.NXB Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh, 1998)
----------------------------------
(1)Bọ vái: tên một loài sâu bọ sống ở các vùng phía nam, thường hay đứng ở tư thế gục đầu, hai chân trước khoanh lại, như người đang quỳ lạy trong lúc cầu nguyện.
(2)Kamakura: một kiểu chạm trổ kết hợp với lối đánh bóng bằng sơn đen.
Bookmarks