Lịch sử điện ảnh Nhật Bản
Thời kỳ đầu đến thập niên 1950
*Các phim có đường dẫn là phim đã được JPN làm phụ đề.
Điện ảnh Nhật Bản có lịch sử bắt đầu từ hơn 100 năm trước. Nhật Bản là một trong những nền điện ảnh lâu đời và lớn mạnh nhất thế giới - hiện đang là quốc gia với số phim được sản xuất nhiều thứ tư thế giới. Phim điện ảnh bắt đầu được sản xuất ở Nhật vào năm 1897, khi những nhà quay phim nước ngoài đặt chân đến nước này. Ví dụ những phim tiêu biểu của nền điện ảnh Nhật Bản: Tokyo Story (Câu chuyện Tokyo), Seven Samurai (Bảy võ sĩ), Ugetsu monogatari (Chuyện đêm mưa trăng lu), Ikiru (Sống), Godzilla, và nhiều phim khác. Trong bảng xếp hạng những phim điện ảnh xuất sắc nhất của châu Á do tạp chí Sight & Sound của Anh bầu chọn, Nhật chiếm 8 phim trên số 12 phim đứng đầu, với phim Tokyo Monogatari đứng đầu bảng xếp hạng. Ở Mỹ, Nhật đã thắng giải Oscar cho phim nước ngoài xuất sắc tổng cộng bốn lần, nhiều hơn bất kỳ quốc gia châu Á nào khác.
Máy chiếu phim nguyên thủy
Thời đại phim câm
Tuy máy chiếu phim kinetoscope (máy chiếu phim nguyên thủy, không âm thanh) được Thomas Edison phát minh và trình chiếu rộng rãi ở Mỹ vào năm 1894, đến năm 1896 phát minh này mới đến Nhật Bản. Hai loại máy chiếu phim tiếp theo, vitascope, và cinematograph của anh em Lumiere được giới thiệu vào Nhật tháng 3 năm 1897, và những nhà quay phim Lumiere là những người đầu tiên quay phim ở Nhật. Tuy vậy, hình ảnh chuyển động không phải là điều quá mới lạ với người Nhật, vì trước đó họ đã có những dụng cụ tiền điện ảnh như gentou (hay còn lại là ***g đèn huyền ảo). Phim điện ảnh thành công đầu tiên được trình chiếu ở Nhật cuối năm 1897 và ra mắt ở nhiều địa điểm nổi tiếng tại Tokyo.
Năm 1898, nhiều phim ma được sản xuất ở Nhật, như những phim ngắn của Asano Shiro - Bake Jizo và Shinin no sosei. Phim tài liệu đầu tiên, Geisha no teodori, được thực hiện tháng 6 năm 1899. Tsunekichi Shibata làm khá nhiều phim vào giai đoạn khởi đầu này, bao gồm Momijigari, phim làm năm 1899 với hai diễn viên nổi tiếng đóng lại một cảnh trong vở kịch kabuki phổ biến. Những phim điện ảnh Nhật đầu tiên chịu nhiều ảnh hưởng của kịch nói - kabuki và bunraku.
Đa số các rạp chiếu phim đầu tiên ở Nhật sử dụng benshi - người dẫn chương trình với lời dẫn chuyện suốt chiều dài phim và nhạc phim. Cũng như Tây phương, benshi được thực hiện trực tiếp khi phim đang chiếu. Năm 1908, Makino Shouzou, được xem là đạo diễn tiên phong của điện ảnh Nhật, bắt đầu sự nghiệp của mình với Honnouji gassen, do hãng Yokota Shoukai sản xuất.
Vào thập niên 1910, bắt đầu với những tạp chí phim đầu tiên như Katsudou shashinkai, nhiều nhà phê bình bắt đầu chỉ trích lối làm phim của những hãng phim như Nikkatsu và Tenkatsu quá phụ thuộc vào kịch nói (ví dụ, sử dụng những yếu tố của kịch kabuki và shinpa, tiêu biểu là onnagata - những nam diễn viên đóng vai nữ) và không xây dựng phim dựa trên những yếu tố điện ảnh để kể chuyện thay cho benshi. Trong phim The Captain's Daughter (1917), Inoue Masao bắt đầu tận dụng những kỹ thuật điện ảnh mới mẻ với thời đại phim câm, như cách quay cận cảnh và cảnh hồi tưởng. Trong trào lưu Điện ảnh thuần túy (Jun'eigageki undou) sau đó, các nhà phê bình của những tạp chí như Kinema Record tiếp tục kêu gọi các đạo diễn sử dụng các thủ pháp điện ảnh một cách rộng rãi. Phong trào này đóng vai trò chính yếu trong sự phát triển của gendaigeki (phim về cuộc sống hiện đại, đối lập với jidaigeki - phim lấy bối cảnh thời xưa). Những hãng phim lớn bắt đầu phát triển vào những năm 1920, như Shochiku và Taikatsu, đẩy mạnh trào lưu này hơn. Thomas Kurihara đạo diễn nhiều phim cùng hãng phim Taikatsu, dựa theo kịch bản của nhà văn Tanizaki Junichiro, ông là một trong những người đẩy mạnh trào lưu Điện ảnh thuần túy này. Ngay cả Nikkatsu cũng sản xuất nhiều phim mang tính điện ảnh hơn dưới sự lãnh đạo của Tanaka Eizou. Khoảng giữa những năm 1920, nữ diễn viên đã thay thế onnagata, và phim sử dụng những kỹ thuật do Inoue sáng tạo ra nhiều hơn. Một trong những phim câm được biết đến nhiều nhất là phim của Mizoguchi Kenji, đạo diễn với nhiều phim được đánh giá cao sau này.
Thập niên 1930
Cảnh trong The story of the last chrysanthemums
Không như Tây phương, Nhật vẫn tiếp tục sản xuất phim câm vào thập niên 1930. Một vài phim ngắn có âm thanh của Nhật được thực hiện vào những năm 1920 và 1930, nhưng phim điện ảnh dài (feature-length, để phân biệt với phim ngắn) có âm thanh đầu tiên là phim Fujiwara Yoshie no furusato (1930). Những phim có âm thanh nổi bật của thời kỳ này là Wife, Be Like A Rose! (Tsuma Yo Bara no Yoni) của Naruse Miko (1935), một trong những phim Nhật đầu tiên được trình chiếu ở rạp tại Mỹ, An Inn in Tokyo của Ozu Yasujiro - được cho là phim tiên phong của thể loại tân hiện thực, Sisters of the Gion (Gion no shimai) của Mizoguchi Kenji (1936), Osaka Elegy (1936), Humanity and Paper Balloons (1937), và The Story of the Last Chrysanthemums (1939).
Trong thập niên 1930, chính quyền cũng can thiệp vào điện ảnh nhiều hơn, họ cho thông qua Luật điện ảnh, cho phép chính quyền có nhiều quyền lực hơn đối với các phim xuất hành. Chính quyền ủng hộ những phim tuyên truyền và cũng ủng hộ việc làm phim tài liệu (hay còn gọi là bunka eiga, "phim văn hóa"), với những phim tài liệu nổi bật do Kamei Fumio sản xuất. Đây là thời gian chủ nghĩa hiện thực lên ngôi.
Thập niên 1940
Do ảnh hưởng của thế chiến thứ 2 và nền kinh tế yếu dần, tình trạng thất nghiệp lan rộng ra khắp nước và gây ra hậu quả không nhỏ với công nghiệp điện ảnh. Trong thời gian này, Nhật quyết tâm mở rộng đế chế của mình, và điện ảnh là công cụ hoàn hảo cho mục đích tuyên truyền. Vì thế, nhiều phim trong thời gian này mang tư tưởng yêu nước và ca ngợi quân đội, tiêu biểu như Hawai Mare oki kaisen của Yamamoto Kajiro.
Kurosawa Akira thực hiện phim dài đầu tiên của mình với phim Sugata Sanshiro (1943). Năm 1948 và 1949, Kurosawa thực hiện Drunken Angel và Stray Dog, cả hai phim đều do Mifune Toshiro thủ vai chính. Ozu Yasujiro thực hiện phim Late Spring được đánh giá cao về mặt nghệ thuật và thành công ở mặt thương mại vào năm 1949.
Năm 1946, giải thưởng điện ảnh Mainichi được thiết lập.
Do
HH lược dịch từ
Wikipedia.
Lưu ý: có thể post bài viết ở nơi khác nhưng chỉ yêu cầu credit người dịch và dẫn link về Japanest. Không credit và không dẫn link có nghĩa là tự nhận bài viết đó của mình (tiếng Việt dịch ra là "ăn cướp"), mà như vậy thì sẽ gặp quả báo đó o,,o Nói trước rồi nha.
Bookmarks