Chương 3
Man.yô-shuu (Vạn Diệp Tập)
Tìm hiểu cái đẹp của dòng thơ Waka
trong tuyển tập thơ tối cổ Nhật Bản.
Nguyễn Nam Trân
Lời tôi ca trên đồng lúa
Lời tôi ca nắng mai hồng
Lời tôi ca cơn sóng nhỏ dòng sông…
Lời tôi ca xanh đại dương
Lời tôi ca những con đường…
Lời ca mãi muôn đời
Lời ca yêu mến người.
La Hữu Vang (1970)
I) HAIKU VÀ WAKA:
Ngày nay khi bàn về thi ca Nhật Bản, người ta hầu như chỉ nhắc đến haiku. Trên thế giới có bao nhiêu Haiku-ist, từ người già đến em bé. Dĩ nhiên đó là điều đáng mừng cho văn học Nhật Bản vì ảnh hưởng sâu rộng của loại thơ ngắn gọn, cô đọng mà học giả phái cấu trúc người Pháp Roland Barthes đã ví von với những “vết xước trên khung thời gian”. Đó là chưa kể việc có thêm một bài thơ thì bớt đi một viên đạn, điều rất quan trọng để giữ sự hòa bình an thái cho tinh cầu xanh của chúng ta.
Thế nhưng sự toàn cầu hóa và đại chúng hóa haiku không làm ta quên rằng thi ca Nhật Bản không chỉ là haiku mà còn biết bao nhiêu hình thức khác, trong đó có waka, Hán thi và thơ mới. Cho đến thế kỷ 17 thì haiku chỉ là một sản phẩm phụ và “thấp hèn” của waka. Nếu không hiểu waka thì khó lòng thưởng thức haiku và thơ mới (shintaishi) một cách trọn vẹn. Bài viết nầy có mục đích thử lội ngược dòng văn học sử để tìm hiểu những nét đẹp của waka (Hòa ca), hình thức thi ca nguyên thủy Nhật Bản nghĩa là những bài thơ viết bằng kana, văn tự biểu âm của người Wa (Hòa, Nhật cổ).
Waka ta biết bây giờ có hai nguồn cội: ca dao cổ đại và Hán thi nhưng xa xưa nhất là ca dao cổ đại. Jôdai kayô (ca dao thời cổ) phát xuất từ những bài hát (uta = ca) trong khi tế lễ để cảm tạ thần linh, trình bày lập đi lập lại theo một lề lối nhất định nào đó, kèm với múa và dụng cụ âm nhạc đơn sơ. Nó còn có tác dụng nâng cao năng suất lao động của tập đoàn.Như thế, uta của thời cổ đã bắt nguồn từ hai lý do trên. Phần văn vần (ca từ) của uta được gọi là kayô vậy. Để khỏi lầm lẫn với từ kayô mà người Nhật dùng ở những giai đoạn sau trong nghĩa rộng hơn nghĩa chữ “ca dao” của tiếng Việt, phần nầy chỉ xin được đóng khung trong lãnh vực jôdai kayô (thượng đại ca dao) hay ca dao cổ đại.
Khi cộng đồng thể cổ đại trưởng thành thì qua kinh nghiệm những lần được trình bày các cuộc tế lễ, hội họp, nội dung của Ca cũng phong phú và hình thức trau chuốt hơn. Người thời cổ hay tụ họp vào mùa xuân hay mùa thu trên núi non, ngoài bãi biển, trong chợ, bên cầu để ca múa và ăn uống. Hình thức tụ họp này gọi là utagaki (ca viên) hay kagai. Xuân là lúc con người cầu xin thần linh cho mùa màng được trúng và thu là lúc cảm ơn đã đạt được thụ hoạch mong muốn. Utagaki cũng là cơ hội nam nữ gặp gỡ, tìm người yêu. Utagaki nổi tiếng nhất ở trên núi Tsukuba nơi nam nữ tụ họp hát ca đối đáp và có những trao đổi xác thịt với nhau trong khi tế lễ. Nhà nghiên cứu Katô Shuuichi gọi đó là những cuộc “loạn giao” (sexual orgy) nghĩa là ai muốn ngủ với ai cũng được. Hitachi Fuudôki (khoảng sau 713), tác phẩm có tính cách địa dư chí của vùng Hitachi, có chép 4 bài ca rõ ràng có liên quan tới utagaki và nhắc tới “cuộc chơi trên bãi biển” (hama - asobi). Trong đó có bài nói đến tâm sự anh con trai trách người con gái nghe lời và đi theo cậu trai khác không chịu ngủ với anh ta. Có bài viết về một anh nọ tiếc công đã đi đến núi Tsukuba mà phải ngủ một mình, chỉ mong sao trời sáng. Xin trích dịch một trong những bài đó:
Gió ngoài khơi thổi nhẹ,
Bãi Takahama.
Cho anh “yêu” em nhé,
Gọi em là « vợ » ta,
Nghèo, xấu, anh nào sá!
(bài Takahama no trong Hitachi Fudoki)
Người gọi là « em » trong bài nầy không là một người con gái nhất định nào, chữ “vợ” (tsuma) cũng chưa hề có ý nghĩa trân trọng hay pháp lý như bây giờ và “muốn yêu” chỉ có thể hiểu theo ngôn ngữ đời xưa là muốn chung đụng xác thịt (học giả David Chibbett dịch là “make love”) với nhau.
Cũng trong Kojiki, sự biểu hiện khoái cảm nhục thể trong liên quan nam nữ đã được thể hiện qua bài trường ca mà nàng Nunakaha-hime hát cho thần Yachihoko (Bát Thiên Mâu) tức thần Ôkuninishi như sau:
Vòng tay người giây dâu,
Ôm ngực trẻ tuyết mịn.
Tay ngọc quàng tay ngọc,
Thân thể quyện vào nhau,
Chân người duỗi dài ra,
Nằm xuống bên ta ngủ.
(Bài Takuzuno shiroki tadamuki trong Kojiki)
Lòng mong mỏi vào sự sinh thực của đất đai hoa màu và của con người (chỉ là giải tỏa nhu cầu thể xác và tôn giáo kiểu tập đoàn chứ chưa có thể gọi là luyến ái cá nhân), thu hoạch khi săn bắn và tình cảm sơ khai gắn bó với quê hương có lẽ là hai nguồn gốc chính của ca dao cổ đại Nhật Bản:
Bắt đầu uta chỉ có tính cách dân dã, gắn liền với đời sống dân gian (dân dao) nhưng sau khi quốc gia thành hình thì nó đã được đem vào các nghi lễ của cung đình cho nên ta cũng có ca dao cung đình nữa. Những tác phẩm đó thường được gọi là ô-uta (đại ca) được hát kèm theo nhạc khí của cơ quan phụ trách nhạc cung đình tên là Gagakuryô Ô-utadokoro (Nhã Nhạc Liêu Đại Ca Sở).
Ca dao thời cổ đã được ghi lại trong Kojiki (Cổ Sự Ký), Nihon shoki (Nhật Bản Thư Kỷ) , Fudoki (Phong Thổ Ký)[1] và Kinkafu (Cầm Ca Phổ). Ca dao cổ đại chép trong các sách ấy có khi gắn liền với những nhân vật tiếng tăm như những bài gọi là “bài ca nhớ nước” (kunishinobi no uta) hay “ngợi khen đất nước” (kunihome no uta) mà tác giả hoặc gán cho thiên hoàng trong thần thoại tên là Keikô (Cảnh Hành) trong khi đi tuần thú, hay cho người anh hùng Yamato no Takeru no Mikoto (con ông ta) tận lực dẹp giặc đến chết. Lúc lâm trọng bệnh trên đường viễn chinh, người anh hùng hướng về quê hương và ca ngợi :
Yamato nhất nước,
Đồng xanh nép núi cao.
Chập chùng giăng mấy lớp,
Yamato đẹp sao!
(bài Yamato wa kuni no mahoroba trong Kojiki)
Ca dao chép lại trong Kojiki và Nihon Shoki được gọi chung là Kiki kayô (Ký Kỷ ca dao). Kojiki có 110 bài, Nihon Shoki có chừng 130 bài, nếu bỏ những bài trùng lập thì ta có tất cả khoảng 190. Khác với dân dao vốn độc lập, Kiki kayô kết hợp với thần thoại và truyền thuyết hay có khi biến thành truyện kể nhưng nội dung vẫn thể hiện sự cúng tế, chiến đấu, luyến ái, yến ẩm, bi thương… tức là cảnh ngộ của cuộc sống con người cổ đại nên quá đó, ta biết được mọi hình thức sinh hoạt của họ. Theo nhà nghiên cứu Katô Shuuichi, ca dao cổ đại Nhật Bản có một số lượng lớn về thơ luyến ái, khác với Kinh Thi của Trung Quốc nhiều hàm ý chính trị, cũng như khác với cả nội dung dân ca Omorosôhi của quần đảo Okinawa, vốn cũng bắt nguồn khoảng thế kỷ thứ 5, thứ 6.
Về hình thức, loại ca dao này sử dụng nhiều makura-kotoba (chẩm từ = chữ chính yếu) và jo-kotoba (tự từ = chữ giáo đầu), có vần điệu đẹp đẽ và đối qua đối lại. Makura-kotoba (makura là cái gối để gối đầu, ý nói gần gũi và trang trọng) là một câu chữ có hình ảnh đẹp để làm điểm tựa (tenkyo) hay hạt mầm (tane) dẫn nhập vào bài ca.[2] Đó là một hình thức tu sức có tính cách tỉ dụ giúp cho nội dung thô sơ theo sau sống động lên hơn khi khả năng liên tưởng kết hợp chúng với nhau.
Trong loại Kiki kayô, có điểm lạ là nó đã bắt đầu bằng 6-8 rồi sau đó hình thức 6-8 đã được thay thế bằng 5-7. Thể loại không nhiều nhưng ta có thể nhắc đến kata-uta (phiến ca), sedô-ka (triền hay toàn đầu ca), tanka (đoản ca) và naga-uta (trường ca).
-Kata-uta:
5-7-7, thể loại đơn sơ nhất.
-Sedô-ka:
5-7-7 và 5-7-7. hình thức kết hợp hai kata-uta. Có tính đối đáp và tập đoàn. Thấy nhiều dưới dạng truyền khẩu. Vì “triền” hay “toàn” có nghĩa là “quay về” nên “triền đầu” phải chăng có nghĩa là trở lại lúc đầu?
-Tanka:
5-7-5-7-7: hình thức tiêu biểu của waka (thơ Nhật) về sau.
-Naga-uta:
5-7-5-7 –5-7…7, độ dài không ấn định.
Trong số ca dao ghi chép tại, có thể kể đến văn bản tên gọi Bussoku sekika (Phật túc thạch ca) là 21 bài ca được khắc trên tấm bia đá ( ca bi = kahi) tên gọi Bussokuseki kahi [3](Phật túc thạch ca bi) ở chùa Dược Sư tại Nara, ca tụng công đức Phật.Những bài này làm theo lối tanka đặc biệt mỗi câu có bảy chữ. Hình thức này rất hiếm dù ở trong Kojiki hay Nihon shoki cũng vậy.
Ngoài ra, giữa thời Heian, vào năm 981, trong tập nhạc dùng cho đàn Nhật (hòa cầm= wagon), tên gọi Kinkafu (Cầm ca phổ), có chép lại 21 bài ca dao viết bằng lối chữ man.yô-gana tức chữ kana viết trong Man.yô-shuu. Năm bài trong tập nầy trùng với ca dao thấy trong hai tập Ký Kỷ.
II) NHỮNG TẬP THƠ WAKA ĐẦU TIÊN
Như đã nói, khi quốc gia thành hình thì ca dao cũng thay đổi theo: một mặt do sự hưng thịnh của tầng lớp quí tộc và quan liêu, mặt khác tổ chức đời sống xã hội lấy đô thị làm trung tâm đã khiến cho ca dao mất dần tính cách tập đoàn và đượm màu sắc chủ thể cá biệt hơn. Ca dao dần dần được trau chuốt, mất tính cách tự do, bị ràng buộc trong những hình thức cố định như ngũ ngôn, thất ngôn…và được soạn theo những ca thể định hình với các tên gọi như chôka hay naga-uta ( trường ca), tanka (đoản ca), sedô–ka (triền đầu ca hay ca đối đáp). Đến khi hình thức ca vịnh có tính cách cá nhân được phát triển đến mức nào đó thì các ca tập của từng cá nhân đã được ra đời.Theo ghi chú thấy trong Man.yô-shuu (Vạn diệp tập) thì thời ấy có những ca tập (kashuu = xin hiểu là tập thơ) tên gọi Kokashuu (Cổ ca tập), Kakinomoto no Hitomaro Kashuu (Thị Bản Nhân, Ma Lữ[4] ca tập), Kasa no Kanamura Kashuu (Lạp Kim Thôn ca tập), Takahashi Mushimaro Kashuu (Cao Kiều Trùng Ma Lữ ca tập), Tanabenosaki Maro Kashuu (Điền Biên Phúc Ma Lữ ca tập), Ruijuu Kashuu (Loại tụ ca tập) nhưng hiện nay không thấy lưu truyền lại quyển nào cả.
Riêng Man.yô-shuu là một tác phẩm lớn tập hợp thơ quốc ngữ Nhật (waka) vào giữa thế kỷ thứ 8, ra đời khoảng năm 758 nghĩa là độ chừng 46 năm sau Kojiki, 38 năm sau Nihon shoki nhưng chỉ có 7 năm sau tập thơ chữ Hán Kaifuusô (Hoài Phong Tảo).
Bookmarks