>
Trang 3/4 đầuđầu 1 2 3 4 cuốicuối
kết quả từ 21 tới 30 trên 40

Ðề tài: [Truyện dài] Ring - Suzuki Koji (full)

  1. #21
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts

    Chương III - Lốc xoáy

    5



    Thứ Hai, ngày 15 tháng Mười

    Mấy ngày qua, mỗi lần thức dậy vào buổi sáng, Asakawa lại thầm mong mọi chuyện sẽ chỉ là giấc mơ. Gã gọi điện đến cửa hiệu cho thuê xe gần nhà để báo với họ rằng gã sẽ tới đó đúng vào giờ đã hẹn hôm qua. Vậy là hôm qua gã có đặt xe thật. Nghĩa là hiện thực vẫn liền mạch nối tiếp nhau.

    Quả là cần phải có một phương tiện di chuyển nếu muốn đến tận nơi để truy tìm nguồn phát sóng. Rất khó có thể gây ảnh hưởng được tới sóng truyền hình chỉ với những máy vô tuyến thông thường nên đó hẳn phải là một loại thiết bị đã được cải tiến bởi một chuyên gia. Chắc chắn cường độ sóng phải rất mạnh vì hình ảnh không hề bị ngắt quãng. Nếu có nhiều thông tin hơn, Asakawa hoàn toàn có thể xác định được khu vực chịu ảnh hưởng của sóng và tìm ra được vị trí trạm phát, nhưng căn cứ duy nhất mà gã có chỉ là việc chiếc ti vi trong ngôi biệt thự B-4 ở Villa Log Cabin đã bắt được sóng. Gã chẳng còn phương pháp nào khác là lấy chỗ đó làm tâm điểm rồi vừa kiểm tra địa hình vừa tìm như tìm rận. Gã không dự liệu được sẽ mất bao lâu nên nhét tạm số quần áo đủ thay trong ba ngày vào túi. Ba ngày... chẳng cần mang hơn thế làm gì.


    Shizu không hề đả động tới cuốn băng mỗi khi hai người giáp mặt nhau. Tối qua, không nghĩ ngay ra được một câu nói dối khả dĩ, Asakawa đành lấp lửng về "cái chết sau một tuần" rồi dỗ dành Shizu đi ngủ. Shizu, tất nhiên chẳng dám làm cho ra nhẽ, vì hẳn là cô cũng mong muốn một tình huống lấp lửng như thế. Không tấn công chồng bằng những câu hỏi như mọi lần, Shizu chìm trong một sự im lặng lạ lùng, có vẻ như cô đang suy luận theo cách thức riêng của mình. Chẳng ai biết cô đã tìm thấy lời giải thích nào chưa nhưng dường như, cảm giác bất an vẫn còn đó. Cô tỏ ra quá đỗi mẫn cảm với những tiếng động bên ngoài, tới mức đã mấy lần cô bật người dậy trong khi theo dõi bộ phim truyền hình nhiều tập phát vào buổi sáng.

    - Cấm em không được nói đến chuyện này nữa. Ngay cả anh cũng không thể trả lời được tại sao, em hiểu chưa. Nhưng anh sẽ lo liệu.

    Asakawa chẳng biết nói thế nào khác để trấn an Shizu. Gã nhất quyết không được tỏ ra mềm yếu trước mặt vợ.
    Chuông điện thoại reo đúng vào lúc Asakawa định ra khỏi nhà. Ryuji gọi.

    - Tớ vừa có một phát hiện khá lý thú đây. Kiểu gì cũng phải hỏi ý kiến cậu. - Giọng Ryuji có vẻ hơi phấn khích.

    - Điện thoại không được à? Mình phải đi thuê xe bây giờ.

    - Thuê xe làm gì?

    - Thì chính cậu bảo mình đi tìm trạm phát sóng còn gì!

    - Nhớ rồi. Nhưng mà thôi, dẹp việc đó lại đã, mau tới đây đi. Chưa biết chừng cậu không phải tìm cột ăng-ten ấy nữa đâu. Vì rất có thể giả định của chúng ta bị chệch hướng.

    Asakawa vẫn quyết định thuê xe rồi mới tới chỗ Ryuji để phòng trường hợp nếu cần phải đi Pacific Land Nam Hakone thì gã có thể đi thẳng từ nhà Ryuji.


    Sau khi đậu xe lên vỉa hè, Asakawa vội vã gõ cửa phòng Ryuji.

    - Vào đi! Không khoá đâu.

    Asakawa đẩy mạnh cánh cửa rồi lao sầm sầm qua bếp.

    - Cậu tìm thấy gì rồi? - Asakawa dồn dập hỏi.

    - Làm gì mà nhóng lên thế.

    Ryuji vẫn ngồi xếp bằng, tròn mắt nhìn gã.

    - Tìm thấy gì rồi thì nói mau lên!

    - Bình tĩnh đã nào.

    - Cậu nói xem, mình có thể bình tĩnh được không!

    Ryuji im lặng một lát. Thế rồi, y từ tốn nói.

    - Có chuyện gì rồi à?

    Asakawa ngồi bệt xuống căn phòng mười mét vuông rồi nắm chặt hai đầu gối trong lòng bàn tay.

    - Vợ mình... vợ mình và con gái mình xem cuộn băng đó rồi.

    - Việc này, gay go đây.

    Ryuji không rời mắt khỏi Asakawa và chờ cho gã bình tĩnh trở lại. Thế rồi trong lúc đó, y hắt hơi một cái rõ to, hỉ mũi đánh toẹt rồi vắt nước mũi.

    - Thế cậu có muốn cứu vợ và con cậu không?

    Asakawa gật đầu như một đứa trẻ.

    - Vậy thì càng phải lạnh cái đầu. Tớ sẽ không đưa ra kết luận trước. Sẽ chỉ có các bằng chứng. Việc của cậu là nói cho tớ biết cậu nhận thấy điều gì từ mỗi bằng chứng ấy. Được chưa nào? Vì vậy, cậu chớ nên mất bình tĩnh.

    - Mình hiểu. - Asakawa ngoan ngoãn chấp thuận.

    Asakawa vừa khóc trước mặt Ryuji. Gã đã trút lên Ryuji toàn bộ những xúc cảm mất tự chủ mà gã không thể bộc lộ trước Shizu.

    Asakawa lau mặt xong và quay trở lại thì Ryuji đưa cho gã một tờ giấy chuyên dùng để viết báo cáo. Trên đó chỉ đơn giản là một bảng liệt kê.



    1) Giới thiệu - 83 giây [ 0] - Trừu tượng
    2) Màu đỏ chảy ra - 49 giây [ 0] - Trừu tượng
    3) Núi Mihara - 55 giây [11] - Hiện thực
    4) Núi Mihara phun trào - 32 giây [6] - Hiện thực
    5) Chữ Yama - 56 giây [ 0] - Trừu tượng
    6) Con xúc xắc - 103 giây [ 0] - Trừu tượng
    7) Bà già - 111 giây [ 0] - Trừu tượng
    8 ) Đứa trẻ sơ sinh - 125 giây [33] - Hiện thực
    9) Vô số những khuôn mặt - 117 giây [ 0] - Trừu tượng
    10) Chiếc ti vi cũ - 141 giây [35] - Hiện thực
    11) Khuôn mặt người đàn ông - 186 giây [44] - Hiện thực
    12) Cảnh kết - 132 giây [ 0] - Trừu tượng



    Nhìn vào đó, gã có thể hiểu được phần nào. Bảng liệt kê chia đoạn phim trong băng thành từng phân cảnh.

    - Tối qua bất chợt nghĩ ra nên tớ mới lập thành bảng này. Cậu hiểu ý nghĩa của nó đúng không nào? Đoạn phim được ghép từ mười hai phân cảnh. Tớ đã đánh dấu và đặt tên cho từng cảnh một. Đằng sau tên cảnh là khoảng thời gian diễn ra cảnh đó. Cậu để ý nhé, chữ số tiếp theo trong ngoặc vuông là số lần màn hình bị tối đen.

    Nét mặt Asakawa đầy vẻ hồ nghi.

    - Tối qua, khi cậu về rồi, tớ đã thử kiểm tra các cảnh khác ngoài cảnh đứa bé xem có bị hiện tượng đen màn hình hay không. Cậu thấy đấy, đây là kết quả: chúng xuất hiện trong những cảnh 3), 4), 8 ), 10), 11).

    - Thế còn trừu tượng và hiện thực là sao?

    - Ta có thể chia mười hai phân cảnh này thành hai nhóm lớn. Những cảnh trừu tượng mà ta có thể gọi là những cảnh tưởng tượng vì chúng chỉ tồn tại ở trong đầu, và những cảnh hiện thực mà ta có thể nhìn được bằng mắt thường vì chúng tồn tại thật. Tớ phân loại ra như thế.

    Nói đoạn, Ryuji ngừng một lát.

    - Thế nào, cậu có nhận xét gì không?

    - Phải rồi, nhìn thấy màn hình chỉ bị đen trong những cảnh hiện thực.

    - Đúng đấy. Trước tiên, cậu phải ghi nhớ kỹ điểm đó.

    - Này Ryuji, cậu dẹp cái trò sốt ruột ấy đi rồi nói ngay cho mình biết nó có ý nghĩa gì được không?

    - Cậu đừng vội. Việc đưa ra kết luận trước sẽ làm cho trực giác trở nên trì độn. Bằng trực giác, tớ đã đi đến một kết luận. Nhưng một khi đã khăng khăng tin như vậy thì dù cho mọi hiện tượng có xoay đổi cậu cũng sẽ cố tìm cách biện bạch cho nó. Ngay trong lĩnh vực điều tra tội phạm cũng vậy phải không nào? Nếu ngay từ đầu cậu tin rằng thằng đó khả nghi thì mọi chứng cứ đều là để chứng minh nó khả nghi. Tớ muốn cậu kiểm chứng cái kết luận của tớ. Nghĩa là, tớ muốn biết cậu có cùng linh cảm với tớ từ những sự việc này hay không.

    - Hiểu rồi, cậu tiếp tục đi.

    - Bây giờ, cậu hãy nhớ lại cái cảm giác lúc xem cuộn băng và kết hợp với một thực tế là màn hình chỉ bị đen ở những phân cảnh hiện thực. Về cảnh đứa bé thì như tớ đã nói hôm qua. Thế còn những cảnh khác thì sao? Ví dụ như cảnh có rất nhiều mặt người này?

    Ryuji lấy điều khiển từ xa bật lại cảnh đó.

    - Nhìn kỹ những bộ mặt này nhé.

    Vài chục khuôn mặt bị gắn chặt vào tường dần dần lui lại phía sau rồi nhân lên hàng trăm, hàng ngàn cái. Nếu nhìn kỹ từng cái sẽ thấy chúng có nét gì đó khác với những bộ mặt người.

    - Cảm giác thế nào? - Ryuji hỏi.

    - Cứ như bọn chúng đang chửi mình là đồ dối trá, đồ lừa đảo vậy.

    - Thực ra tớ cũng có cảm giác giống cậu, à không, có lẽ là gần như cậu.

    Asakawa tập trung toàn bộ thần kinh để tìm ra cái kết luận mà thực tế này sẽ dẫn tới. Ryuji đang đợi một câu trả lời rõ ràng của gã.

    - Sao? - Ryuji hỏi.

    Asakawa lắc đầu.

    - Chịu thôi, chẳng nảy ra được điều gì hết.

    - Hẳn là cậu sẽ nảy ra cái điều mà tớ đang nghĩ nếu có nhiều thời gian để chiêm nghiệm hơn nữa. Cậu nghe này, cả cậu và tớ đều tưởng tượng những hình ảnh này được ghi lại bởi máy quay phim, nói cách khác là qua ống kính của một cái máy, phải không nào?

    - Chẳng lẽ không phải thế?

    - Thế cái màn đen che phủ màn hình trong tích tắc này là gì?

    Ryuji cho chạy từng khung hình có những đoạn phim bị đen. Liên tục có những đoạn như thế kéo dài từ ba đến bốn khung hình. Độ dài của một khung hình bằng một phần ba mươi giây, vì vậy mỗi đoạn bị đen tương đương với 0,1 giây.

    - Tại sao chúng lại chỉ xuất hiện trong những cảnh có thật mà không phải những cảnh tưởng tượng? Cậu nhìn kỹ đi, đâu phải toàn bộ màn hình đều bị đen.

    Asakawa ghé sát mặt lại màn hình. Quả thực nó không phải là một màu đen đặc. Có cái gì như những vết lấm tấm màu trắng mờ nhạt trên đó.

    - Cái bóng mờ đó chính là dư ảnh. Vì vậy, khi xem những cảnh này, ta có cảm giác sống động như chính mình là người trong cuộc.

    Ryuji chớp mắt một cái rất mạnh trước mặt Asakawa... Màn đen? Màn đen? Hả?

    - Không lẽ, đó là cái chớp mắt? - Asakawa lẩm bẩm.

    - Đúng thế, còn là gì khác được nữa nào? Sẽ rất logic nếu cho rằng như vậy. Con người không những có thể nhìn trực tiếp sự vật bằng mắt mà còn có thể hình dung ra chúng ở trong tâm trí. Khi tưởng tượng, vật thể không đi qua võng mạc nên không xuất hiện những lần chớp mắt. Tuy nhiên, với những cảnh vật nhìn bằng mắt trong thực tế, hình ảnh được tạo thành bởi cường độ mạnh yếu của ánh sáng phản chiếu lên võng mạc. Những lúc như thế, để tránh cho võng mạc khỏi bị khô, chúng ta thường chớp mắt một cách vô thức. Màn đen đó chính là khoảng thời gian mi mắt nhắm lại.

    Cảm giác buồn nôn lại ập đến. Lần đầu tiên khi xem xong, Asakawa đã phải lao vào toilet, vậy mà lúc này cơn ớn lạnh còn dữ dội hơn nhiều. Kẻ nào đó đã ám vào người mình! Ý nghĩ ấy xâm chiếm gã. Những hình ảnh này không phải do máy móc, mà do mắt, tai, mũi, miệng và cảm giác trên da, nghĩa là toàn bộ các giác quan của một con người ghi lại. Có một cái bóng đã nhập vào các giác quan của gã. Chính nó gây ra cái ớn lạnh và cơn rùng mình không thể ngăn lại được này. Gã đã xem đoạn băng bằng cùng ánh mắt với một dị thể trong người gã.

    Lau mãi, lau mãi mà mồ hôi trên trán gã vẫn chảy ra.

    - Cậu biết không, tuy mỗi người mỗi khác song số lần chớp mắt trung bình trong một phút của nam là hai mươi còn của nữ là mười lăm. Vì vậy, rất có thể đây là hình ảnh do một phụ nữ ghi lại.

    Asakawa không nghe thấy gì nữa.

    - Hơ hơ, cậu sao vậy? Trông cái mặt như chết rồi thế kia. - Ryuji cười. - Này, lạc quan lên chút. Chúng ta tiến thêm được một bước rồi còn gì. Nếu quả là những hình ảnh ấy được ghi lại bởi các giác quan của một nhân vật nào đó, thì hẳn là nội dung câu thần chú phải có mối quan hệ với ý muốn của kẻ ấy. Tóm lại, nhân vật này muốn chúng ta làm một điều gì đó.

    Khả năng tư duy của gã hiện thời tê liệt. Tiếng nói của Ryuji tuy có bay tới tai gã nhưng ý nghĩa của nó không thể lọt được vào đầu gã.

    - Vậy là trước mắt những việc cần làm đã rõ ràng. Chúng ta sẽ phải tìm cho ra nhân vật này. Và phải tìm hiểu xem sinh thời..., ờ, vì chắc là không còn sống, kẻ đó mong muốn điều gì. Đó là câu thần chú cho sự sống sót của cậu và tớ.

    Ryuji nháy mắt cho Asakawa như muốn nói: cậu thấy tớ thế nào?



    còn tiếp...

  2. The Following User Says Thank You to sarujun For This Useful Post:

    * Haibara * (08-02-2012)

  3. #22
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts

    tiếp...

    Chiếc xe Asakawa lái vừa ra khỏi xa lộ Keihin số 3 và lao về phía nam trên con đường nối Yokohama-Yokosuka. Ryuji đang ngả lưng ghế và ngủ ngon lành bên cạnh gã. Đã gần hai giờ chiều, vậy mà Asakawa không hề thấy đói.

    Asakawa rụt lại bàn tay đang định đánh thức Ryuji dậy. Đích đến vẫn còn ở phía trước. Ryuji chỉ bảo gã đi Kamakura mà không giải thích gì hơn, gã cũng không biết là cần phải đến chỗ nào. Không rõ phải đi đâu và để làm gì luôn khiến thần kinh của người giữ lái căng thẳng. Trong lúc vội vã nhét hành lý vào túi, Ryuji bảo sẽ giải thích cụ thể khi vào trong xe, vậy mà vừa mới lên xe, y chỉ kịp nói: "Đêm qua tớ không ngủ nên bao giờ đến Kamakura hẵng đánh thức tớ dậy", rồi lập tức ngủ mất.

    Họ rời đường Yokohama-Yokosuka ở Asahina rồi chạy khoảng năm cây số nữa theo phố Kanazawa thì đến trước ga Kamakura. Ryuji đã làm một giấc hơn hai tiếng đồng hồ.

    - Này, tới rồi.

    Bị Asakawa lay vai, Ryuji vươn người, lấy mu tay dụi mắt rồi lắc lắc cái mặt như một con mèo.

    - ... Làm mất cả giấc mơ đẹp của tớ.

    - Làm gì tiếp đây?

    Ryuji nhỏm người dậy, ngó ra ngoài cửa kính để kiểm tra xem mình đang ở đâu.

    - Cứ đi theo con đường này, rẽ trái ở cổng chính vào đền thờ Hachiman rồi dừng lại.

    Nói đoạn Ryuji cười hề hề: "Tớ phải mơ tiếp đây", rồi lại định ngả người nằm xuống.

    - Này, đến đó chẳng mất tới năm phút, còn có thời gian cho cậu ngủ sao? Mau giải thích cho mình nghe xem nào.

    - Cứ tới rồi khắc biết.

    Ryuji ghếch đầu gối lên táp-lô và lại chìm vào giấc ngủ.

    Asakawa rẽ trái rồi dừng lại. Ngay trước mặt gã là một ngôi nhà tư hai tầng cũ kỹ có đề dòng chữ nhỏ "Kỷ niệm Đường Miura Tetsuzo".

    - Cậu cho xe vào bãi đậu đằng kia.

    Không biết Ryuji đã he hé mở mắt từ lúc nào. Bộ mặt y đầy vẻ mãn nguyện và lỗ mũi đang nở ra như thể đánh hơi thấy một mùi hương nào đó.

    - Hề hề, ơn trời, thế nào mà tớ lại mơ tiếp được.

    - Cậu mơ thấy gì? - Asakawa vừa bẻ lái vừa hỏi.

    - Cậu biết rồi còn gì, tớ mơ thấy tớ đang bay trên trời. Tớ khoái nhất là được mơ thấy mình đang bay. - Ryuji khoái trá khịt mũi rồi liếm mép.

    Ngôi nhà với cái tên Kỷ niệm Đường Miura Tetsuzo vắng hoe. Toàn bộ không gian rộng chừng ba mươi ba mét vuông dưới tầng một được trang trí bởi những bức ảnh và thư tịch được ***g trong khung hoặc đặt trong hòm kính, ở bức tường chính giữa là tiểu sử của nhân vật có cái tên Miura Tetsuzo. Đọc qua một lượt, cuối cùng Asakawa cũng biết được nhân vật ấy là người như thế nào.

    - Xin lỗi, có ai ở nhà không ạ? - Ryuji gọi với vào trong. Không có tiếng trả lời.

    Miura Tetsuzo, sau khi thôi làm giáo sư tại trường đại học Y., đã mất ở tuổi bảy mươi hai cách đây hai năm. Chuyên môn là vật lý lý thuyết nhưng ông ta đặc biệt am hiểu về vật lý chất đặc và cơ học thống kê. Tuy nhiên, toà nhà này không phải được dựng lên để tôn vinh những thành tựu trong lĩnh vực chuyên ngành của ông ta là vật lý, cho dù nó khá nhỏ. Mà là cho sự giải mã những hiện tượng phi thường một cách khoa học. Trong tiểu sử có viết: lý thuyết của ông đã gây nên sự chú ý của thế giới, nhưng tất nhiên, chắc đó chỉ là một phần rất nhỏ. Bằng chứng là từ trước đến nay, Asakawa chưa một lần nghe thấy danh tiếng của ông ta. Vậy thì cái lý thuyết mà ông ta phát hiện là gì? Asakawa đi tìm câu trả lời trên những bức tường và các hòm kính. "... ý nghĩ hàm chứa năng lượng và nguồn năng lượng ấy..." Gã đọc tới đó thì từ bên trong vọng ra tiếng bước chân chạy xuống cầu thang. Một người đàn ông ngoại tứ tuần với hàng ria mép mở cánh cửa trượt ra và xuất hiện. Làm theo Ryuji đang cầm danh thiếp và tiến lại gần người đàn ông, Asakawa cũng rút danh thiếp của mình từ túi áo ngực.

    - Chào anh, tôi là Takayama, hiện đang giảng dạy tại đại học K.

    Giọng điệu của Ryuji khác hẳn với khi nói chuyện với Asakawa. Gã thấy cái lối giả lả của Ryuji thật ngộ. Asakawa cũng đưa danh thiếp ra. Hết nhìn chiếc này tới chiếc kia, một của giảng viên đại học và một của phóng viên tạp chí, khuôn mặt người đàn ông lộ vẻ hơi khó chịu. Anh ta nhíu mày vì tấm danh thiếp của Asakawa.

    - Nếu không phiền, chúng tôi có thể thỉnh giáo anh một vài việc được không ạ.

    - Số là hồi giáo sư Miura còn sống, tôi có vinh hạnh được gặp giáo sư một lần.

    Không hiểu sao câu nói đó lại khiến nét mặt người đàn ông giãn ra, anh ta đem tới ba chiếc ghế gấp rồi xếp chúng quay mặt vào nhau.

    - Vậy à? Các anh ngồi đi.

    - Cách đây chừng ba năm, tính ra là đúng một năm trước khi giáo sư qua đời, tôi quyết định đến thỉnh chuyện giáo sư nhân một lần nhà trường đánh tiếng hỏi xem tôi có muốn dạy môn phương pháp luận khoa học hay không...

    - Ở ngôi nhà này?

    - Vâng, qua sự giới thiệu của giáo sư Takatsuka...

    Cuối cùng thì người đàn ông cũng nở một nụ cười khi nghe nhắc đến tên giáo sư Takatsuka, vì điểm chung giữa họ đã rõ ràng.

    Hẳn là anh ta đang nghĩ: hai người này cùng phe với mình, chắc không phải những kẻ đến để công kích...

    - Tôi tên là Miura Tetsuaki, xin thứ lỗi cho sự khiếm nhã vừa rồi. Cũng xin lỗi vì danh thiếp của tôi vừa mới hết...

    - Nói vậy thì anh là...

    - Vâng, tôi chính là đứa con kém cỏi của ông.

    - Vậy sao, ồ, tôi không hề nghĩ là giáo sư lại có một đứa con giỏi giang như thế...

    Asakawa phải cố nén để khỏi phì cười vì cái cách Ryuji gọi một người hơn họ đến mười tuổi là "một đứa con giỏi giang".

    Miura Tetsuaki giới thiệu sơ qua về kỷ niệm đường của cha mình, rằng các học trò của ông đã góp sức biến ngôi nhà mà ông để lại thành một kỷ niệm đường và phân loại các tài liệu thu thập được. Còn về phần mình, anh ta nói với một vẻ pha chút tự trào rằng, anh ta đã không đi theo con đường nghiên cứu mà người bố mong đợi, mà lại bỏ tiền ra xây dựng và kinh doanh một khách sạn nhỏ trên cùng miếng đất với ngôi kỷ niệm đường.

    - Tóm lại là tôi đang lợi dụng danh tiếng và mảnh đất ông cụ để lại, vì thế tôi buộc phải tự gọi mình là một đứa con kém cỏi.

    Tetsuaki nói vậy rồi cười thẹn thùng. Khách sạn của anh ta thường phục vụ cho những chuyến đi xa của đám học sinh cấp ba. Khách trọ hầu hết là thành viên các câu lạc bộ khoa học như câu lạc bộ vật lý, sinh vật, trong số đó còn có cả những cái tên như Hội Nghiên cứu Siêu tâm lý học. Mà chỗ nghỉ trọ của bọn học trò thì cần một chút danh nghĩa. Vì thế, Kỷ niệm Đường Miura Tetsuzo chính là miếng mồi câu bóng bẩy thu hút những đoàn học sinh cấp ba tới nghỉ.

    - Chuyện là thế này anh ạ. - Ryuji sửa lại tư thế ngồi và tìm cách đưa câu chuyện trở về quỹ đạo.

    - Ấy chết, tôi xin lỗi vì cứ huyên thuyên những chuyện không đâu... Vậy tôi có thể giúp gì được các anh?

    Như thế đủ thấy Tetsuaki chẳng có chút tài năng nào của một nhà khoa học. Nhìn nghiêng, nét mặt lộ đầy vẻ khinh bỉ của Ryuji tuồng như muốn nói: cái thái độ vuốt đuôi kiểu con buôn hợp với thằng cha này lắm.

    - Chẳng là chúng tôi đang đi tìm một nhân vật.

    - Là ai vậy?

    - Chúng tôi chưa biết, chính vì thế nên chúng tôi mới tới đây.

    - Ái chà, như vậy nghĩa là..., à, anh cứ nói tiếp đi...

    Tetsuaki nhíu mày bối rối như thể giục khéo Ryuji trình bày câu chuyện một cách dễ hiểu hơn.

    - Tôi không dám chắc chắn nhân vật này còn sống hay đã chết. Chỉ biết rõ một điều rằng, kẻ đó sở hữu một sức mạnh mà người thường không thể nào có được.

    Nói đến đây Ryuji ngừng một hơi và nhìn xoáy vào Tetsuaki. Dường như ngay lập tức Tetsuaki hiểu ra rằng, "sức mạnh mà người thường không thể nào có được" nghĩa là gì.

    - Giáo sư Miura là nhà sưu tập hàng đầu Nhật Bản trong lĩnh vực này. Trước đây, tôi có nghe giáo sư nói rằng, bằng mạng lưới riêng của mình, giáo sư đã lập danh sách những người có khả năng thần bí trên toàn nước Nhật và vẫn còn cất giữ những tài liệu đó.

    Mặt Tetsuaki sầm lại. Anh ta nghĩ bụng: không phải bọn người này đến để nhờ mình tìm cho họ một nhân vật trong đống tài liệu ấy đấy chứ?

    - Vâng, tất nhiên là các tập hồ sơ vẫn còn được lưu giữ. Nhưng, phần lớn bọn họ là những kẻ lừa đảo, vả lại khối lượng hồ sơ không phải là nhỏ.

    Tetsuaki chợt rùng mình khi hình dung tới việc phải lật giở đám hồ sơ ấy một lần nữa. Mười mấy học trò của ông đã phải mất vài tháng mới phân loại xong. Cũng bởi theo di nguyện của người quá cố, họ đã giữ lại cả những tài liệu không đủ căn cứ thành thử mới lên tới con số khổng lồ như vậy.

    - Ồ, chúng tôi đâu dám phiền anh như thế. Nếu anh cho phép, hai chúng tôi sẽ tự mình tìm lấy.

    - Chúng nằm trong kho trên tầng hai, trước tiên mời các anh lên xem.

    Tetsuaki đứng dậy. Bọn họ chưa biết chúng nhiều thế nào nên dám nói vậy, chứ chỉ cần thấy cái giá sách la liệt những thứ ấy thì không nản mới lạ. Tetsuaki vừa nghĩ như vậy vừa đưa hai người lên tầng hai.

    Trần nhà của căn phòng đó khá cao, sát bức tường đối diện với lối lên cầu thang là hai hàng giá sách bảy tầng được kê cạnh nhau. Có bốn mươi tập tài liệu trong mỗi quyển kẹp hồ sơ, mà nhìn qua cũng tính được có đến vài nghìn quyển... Chẳng biết Ryuji ra sao chứ mặt Asakawa thì không còn giọt máu.

    ...Đốt thời giờ vào đống hồ sơ này thì chỉ còn nước chết mục trong cái nhà kho tối tăm này mà thôi.

    Thế rồi, gã kêu thầm trong bụng: "Không còn cách nào khác nữa sao?"

    - Xin phép anh cho chúng tôi xem qua một chút. - Ryuji thản nhiên nói.

    - Xin mời, các anh cứ tự nhiên...

    Mặc dù đã hơi chán nản, Tetsuaki vẫn đứng nán lại quan sát hai người một lúc vì tò mò muốn biết rốt cuộc họ đang định tìm kiếm cái gì, thế nhưng đến nước này thì quả thực anh ta ngán ngẩm quá rồi.

    - Tôi xin phép vì còn có chút việc. - Nói vậy rồi anh ta rời chỗ.

    Khi chỉ còn hai người, Asakawa hỏi Ryuji.

    - Này, cậu giải thích xem chuyện là như thế nào.

    Giọng Asakawa hơi ồm ồm vì phải ngẩng cổ lên để nhìn cái giá xếp đầy hồ sơ. Kể từ lúc bước vào kỷ niệm đường, đây là lần đầu tiên gã cất tiếng. Các tập hồ sơ được xếp theo năm, ngày tháng ghi trên những miếng bìa gáy bắt đầu từ năm 1956 và kết thúc vào năm 1988. Năm 1988, chính là năm tiến sỹ Miura qua đời. Cái chết đã khép lại công cuộc sưu tầm suốt ba mươi hai năm trời của ông.

    - Không còn thời gian, chúng ta vừa tìm vừa nói chuyện. Tớ sẽ tìm từ năm 1956 trở đi, còn cậu bắt đầu cho tớ từ năm 1960.

    Asakawa rút bừa một quyển ra và thử giở mấy tờ. Trang nào cũng có ít nhất một bức ảnh và một mẩu giấy ghi lại vài dòng chú thích đơn giản, địa chỉ và danh tính.

    - Cậu bảo mình tìm, nhưng tìm cái gì bây giờ?

    - Nhớ chú ý tên và địa chỉ. Nhặt ra những người nào là nữ sống trên đảo Izu Oshima.

    - Sao phải là nữ? - Asakawa chau mày khó hiểu.

    - Thế theo cậu thì câu nói: "sang năm cháu sẽ sinh con" của bà già ấy là để nói với ai?

    Đúng là đàn ông không đẻ được con.

    Dẹp mọi chuyện khác sang bên, hai người bắt đầu tìm kiếm. Vừa lặp đi lặp lại một thao tác đơn điệu, Ryuji vừa cắt nghĩa cho câu hỏi của Asakawa rằng tại sao lại có những tập hồ sơ này.

    Bước vào những năm năm mươi, với mối quan tâm lớn tới hiện tượng siêu tự nhiên, tiến sỹ Miura bắt đầu tiến hành những thí nghiệm siêu năng lực, tuy nhiên các kết quả thiếu tính ổn định đã khiến một học thuyết khoa học chưa thể ra đời. Ngay cả đối với khả năng thấu thị, sự thiếu ổn định như vậy cũng thường xuyên xảy ra, khi trình diễn trước mắt công chúng, người ta bỗng nhiên không thể thực hiện được cái khả năng mà mới đó còn làm được. Mọi chuyện cho thấy rằng cần phải có một sức tập trung không nhỏ để phát huy những khả năng này. Tuy nhiên, điều mà tiến sỹ Miura đòi hỏi là một nhân vật có thể phát huy những khả năng đó ở mọi lúc và ở mọi nơi. Ông hiểu rằng nếu thất bại trước mặt đám đông, bản thân ông sẽ không tránh khỏi bị gọi là một tên lừa đảo. Vì vậy, tin chắc rằng vẫn còn tiềm ẩn những người có năng lực siêu nhiên trên thế giới, ông đã quyết định đi tìm họ. Vấn đề là cần phải tìm bằng phương pháp nào? Tất nhiên, không thể kiểm chứng khả năng thấu thị, khả năng tiên tri, năng lực viễn khiển bằng cách gặp mặt từng người một. Vậy là ông nảy ra một sáng kiến: ông gửi một tấm phim được niêm phong cẩn mật tới những nhân vật được cho là có khả năng này, yêu cầu họ dùng ý nghĩ của mình để in lên đó một hình vẽ mà ông chỉ định rồi gửi lại cho ông trong trạng thái vẫn dán kín. Với cách ấy, ông có thể kiểm tra được khả năng của ngay cả những người ở cách ông rất xa. Hơn nữa, chụp ảnh bằng ý nghĩ là một khả năng khá cơ bản, người có khả năng này thường đồng thời có khả năng tiên tri hoặc thấu thị. Năm 1956, tiến sỹ Miura bắt đầu chiêu mộ rộng rãi những người có khả năng đặc biệt từ khắp nước với sự giúp sức của các học trò đang làm việc tại các nhà xuất bản và toà soạn báo. Khi nghe thấy tin đồn về những người có khả năng này thông qua mạng lưới của mình, các học trò sẽ báo cáo lại cho ông. Tuy nhiên, việc kiểm tra bằng phương pháp ấy cho thấy số người có khả năng thực sự chỉ chiếm chưa quá một phần mười, còn lại phần lớn các tấm phim đều bị bóc ra và đánh tráo một cách khéo léo. Ông quyết định tiêu huỷ ngay tại chỗ những tấm phim được xác định là bịp bợm và cố gắng giữ lại những tấm phim chưa thể kiểm chứng rõ ràng. Kết quả là đã hình thành nên một bộ sưu tập không thể quản lý nổi như thế này. Sau đó, cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự gia tăng về số lượng học trò, mạng lưới của ông mỗi ngày một hoàn thiện hơn, các số liệu liên tục dày theo năm tháng cho tới khi tiến sỹ qua đời.

    - Ra vậy... - Asakawa lẩm bẩm. - Mình hiểu ý nghĩa của bộ sưu tập này rồi. Nhưng làm sao cậu biết được trong đó có cái kẻ mà chúng ta đang tìm kiếm?

    - Ai bảo cậu là tớ khẳng định như thế. Tớ chỉ nói là rất có thể thôi. Nghe này, cậu hiểu một kẻ làm được những điều như vậy là thế nào không? Ừ thì cũng có vài ba kẻ có thể chụp ảnh bằng ý nghĩ. Nhưng một kẻ có thể đưa hình ảnh vào trong bóng hình ti vi mà không dùng bất cứ thiết bị nào thì quả là hiếm. Đó là một siêu siêu năng lực cậu hiểu chưa? Một kẻ có khả năng như vậy cho dù có sống một cách hết sức bình thường cũng không thể tránh khỏi sự chú ý của xung quanh. Tớ không nghĩ là mạng lưới của tiến sỹ Miura lại có thể bỏ qua một đối tượng lù lù trước mắt như vậy được.

    ... Vậy là có cơ may. Ngay cả Asakawa cũng thừa nhận điều này. Gã cảm thấy những ngón tay đang lật giở hồ sơ trở nên mạnh mẽ hơn.

    - Nhưng tại sao mình lại phải lục tìm từ những tệp hồ sơ năm 1960? - Bất chợt nhớ ra, Asakawa ngẩng đầu lên hỏi.

    - Cậu còn nhớ chiếc ti vi trong đoạn băng ấy chứ? Nó là một chiếc ti vi đời cũ, thuộc thế hệ sơ khai của máy truyền hình, khoảng những năm năm mươi tới đầu sáu mươi.

    - Thế thì sao? Chả giải quyết được vấn đề gì...

    - Cậu thật rầy rà, chẳng phải tớ đã nói rằng đó là vấn đề cơ may hay sao?

    Asakawa tự nhắc nhở mình rằng suốt từ lúc nãy tới giờ gã đã quá nóng ruột. Nhưng như thế cũng hợp lẽ. Thời gian không còn nhiều nữa, lại phải lục lọi đống hồ sơ khổng lồ này nữa, như thế mà bình tĩnh được mới là lạ.
    Đúng lúc ấy, dòng chữ "Izu Oshima" đập vào mắt gã.

    - Ái chà, đây rồi!

    Tiếng kêu của gã như thể vừa tóm cổ được một con ma. Ryuji giật mình quay lại ngó vào tập hồ sơ.

    ... Motomachi, Izu Oshima. Tsuchida Teruko. 37 tuổi. Bưu ấn đề ngày 14 tháng Hai năm 1960. Một bức ảnh đơn sắc có hình tia chớp chạy sáng trắng trên nền đen. Phần chú thích ghi: "Đây là kết quả nhận được khi gửi đi yêu cầu dùng ý nghĩ để chụp hình chữ thập. Không có dấu vết đánh tráo."

    - Cậu thấy sao? - Asakawa phấn khích lắc lư người trong lúc chờ đợi phản ứng của Ryuji.

    - ... Không phải là không có khả năng. Trước mắt, cậu cứ ghi lại địa chỉ và họ tên cái đã.

    Chỉ nói có vậy rồi Ryuji lại quay trở về với tập hồ sơ của mình. Tuy đã phấn chấn hơn vì ngay lập tức phát hiện ra một đối tượng đầy hứa hẹn song Asakawa cũng không khỏi bất mãn trước phản ứng lạnh nhạt của Ryuji.

    Đã hai giờ đồng hồ trôi qua. Kể từ lúc đó họ không còn phát hiện thêm một phụ nữ nào có nguồn gốc từ đảo Izu Oshima nữa. Địa chỉ của người gửi phần lớn là ở Tokyo hoặc những khu vực ven vùng Kanto. Tetsuaki xuất hiện với hai ly trà, trước khi bỏ đi, anh ta còn để lại mấy câu hàm ý mỉa mai. Đã hai tiếng đồng hồ mà chưa giải quyết hết chỗ tư liệu của một năm, bàn tay hai người mỗi lúc một uể oải hơn.

    Đã tìm xong năm 1960. Trước khi chuyển sang năm 1961, Asakawa đưa mắt qua phía Ryuji. Y đang ngồi xếp bằng và gục mặt xuống tập hồ sơ mở rộng mà không hề nhúc nhích. Hắn lại ngủ rồi, nghĩ vậy Asakawa vừa định đưa tay ra thì có tiếng y rên lên đầy thảm thiết.

    - Đói chết mất. Này, mua hộ tớ hộp cơm với trà Ô Long về đây được không? Nhân tiện đặt luôn một phòng ở Le Petite Pension Soleil đêm nay nhé.

    - Cái quái quỷ gì vậy.

    - Là khách sạn của thằng cha lúc nãy ấy mà.

    - Ai chả biết, nhưng tại sao lại phải ngủ với cậu cơ chứ...

    - Cậu không thích à?

    - Nhưng mình không có thời gian, mình không thể ung dung ngủ lại khách sạn lúc này được.

    - Ừ, thì cứ cho là cậu đã tìm thấy người đàn bà đó rồi đi, nhưng cậu định đi Oshima ngay bây giờ chắc? Hôm nay phải nằm lại đây thôi. Tốt hơn hết là đánh một giấc thật đẫy cho lại sức cái đã.

    Asakawa cảm thấy không còn gì ghê tởm hơn khi phải ở chung khách sạn với Ryuji, nhưng đành vậy, gã chạy đi mua cơm, nói với Miura Tetsuaki rằng họ sẽ nghỉ lại đêm nay, rồi ngồi nhai cơm hộp và uống trà Ô Long với Ryuji. Bảy giờ tối, hai người tạm nghỉ tay.

    Hai cánh tay và bả vai mỏi nhừ. Asakawa gỡ kính ra cho khỏi nhức mắt. Bù lại, gã gí sát mặt vào tập hồ sơ rồi lần tìm như thể đang liếm chúng. Việc tập trung thần kinh cao độ để không sơ sểnh bỏ qua bất cứ chi tiết nào càng khiến gã mệt mỏi hơn.

    Chín giờ tối. Giữa căn phòng lặng ngắt bỗng vang lên tiếng kêu thất thanh của Ryuji.

    - Tìm được rồi. Hoá ra nó nằm ở đây.

    Bị thu hút, Asakawa ngồi xuống cạnh Ryuji và đeo lại kính lên mắt.

    ... Sashikichi, Izu Oshima. Yamamura Sadako. Mười tuổi. Bưu ấn trên bì thư đề ngày 29 tháng Tám năm 1956. Cùng với một tấm ảnh có chữ Yama màu trắng nổi lên trên nền đen là lời chú thích: "Đây là kết quả nhận được khi gửi đi yêu cầu dùng ý nghĩ để chụp tên mình lên phim. Khẳng định tấm phim hoàn toàn là thật."
    Asakawa nhận ra con chữ ấy.

    - Đúng... đúng là nó. - Giọng gã run lên.

    Trong đoạn băng, cảnh phim có chữ Yama diễn ra ngay sau cảnh phun trào của núi lửa Mihara. Và ở cảnh thứ mười, chữ Sada đã hiện lên trong chiếc ti vi đời cũ. Mà tên đứa bé gái này lại là Yamamura Sadako.

    - Cậu nghĩ sao? - Ryuji hỏi.

    - Đúng là nó rồi, không sai được.

    Cuối cùng thì những tia hy vọng cũng được nhen lên. Biết đâu vẫn còn kịp, ý nghĩ ấy bất chợt thoáng qua trong óc gã.



    _tiếp: Chương III / 6_

  4. #23
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts

    Chương III - Lốc xoáy

    6




    Thứ Ba, ngày 16 tháng Mười


    10:15 sáng, Asakawa và Ryuji đang ở trên chiếc tàu cao tốc vừa rời cảng Atami. Không có phà nối đảo Oshima với đất liền, vì vậy họ đành phải gửi lại ô tô ở bãi đỗ xe bên cạnh khách sạn Atami Korakuen. Tay trái Asakawa vẫn đang nắm chặt chiếc chìa khoá.

    Theo dự định, thuyền sẽ tới đảo Oshima sau một tiếng. Trời sắp mưa, gió cũng nổi lên khá mạnh. Chẳng có mấy hành khách lên boong, hầu như mọi người đang ngồi co ro trên ghế. Vì phải quáng quàng mua vé nên họ đã không thể xác nhận thông tin một cách đầy đủ, nhưng dường như có một cơn bão đang tiến lại gần. Sóng dằn mạnh, con thuyền cũng chao đảo hơn.

    Vừa nhâm nhi lon cà phê nóng bỏng, Asakawa vừa điểm lại những diễn biến vừa qua trong đầu. Gã không biết nên khen ngợi mình vì sự kiên cường cho đến lúc này, hay nên tự trách mình vì đã không thể tìm ra cái tên Yamamura Sadako và tới đảo Oshima sớm hơn. Vì toàn bộ chìa khoá của vấn đề nằm ở chỗ: có nhận ra hay không lớp màng đen che phủ màn hình trong thoáng chốc ấy chính là một cái chớp mắt. Nếu đúng là đoạn băng ấy không phải được ghi lại bằng máy quay video mà bằng các giác quan của một con người, và đúng là nhân vật đó đã dùng thuật ghi hình bằng ý nghĩ trong lúc đầu máy video đang chạy tại ngôi biệt thự B-4 của Villa Log Cabin, thì siêu năng lực của kẻ đó không thể lường hết được. Chú ý tới đặc điểm nổi bật khác với người thường này, Ryuji đã thành công trong việc tìm ra tung tích của kẻ đó. Nhưng, đã chắc gì Yamamura Sadako là thủ phạm. Tất cả mới chỉ là nghi vấn. Và bọn gã đang trên đường tới đảo Oshima để làm rõ nghi vấn này.

    Sóng xô mạnh con thuyền. Một linh cảm xấu bỗng ập xuống Asakawa. Liệu có sáng suốt không khi cả hai người cùng tới đảo Oshima? Ai sẽ cứu vợ con gã nếu bọn họ mắt kẹt trên Oshima vì bão? Hạn chót của gã đang đến gần: 10:40 tối ngày kia.

    Cơ thể Asakawa mỗi lúc một co rúm lại mặc cho lon cà phê đang hâm nóng hai tay.

    - Mình vẫn chưa tin. Làm sao con người có thể làm được việc đó.

    - Vấn đề đâu phải tin hay không. - Ryuji trả lời trong khi vẫn nhìn xuống tấm bản đồ Oshima. - Vấn đề là cậu đang phải đối mặt với thực tế. Cậu nên hiểu, cái mà chúng ta nhìn thấy được chỉ là một phần của hiện tượng biến hoá không ngừng.

    Ryuji đặt tấm bản đồ lên đầu gối.

    - Cậu biết Big Bang chứ? Người ta cho rằng vũ trụ ra đời từ một vụ nổ khủng khiếp cách đây hai mươi tỷ năm. Tớ có thể biểu diễn lại những biến thiên của vũ trụ từ khi hình thành cho tới nay bằng các công thức toán học, nói một cách cụ thể là phương trình vi phân. Cậu phải biết rằng hầu hết các hiện tượng của vũ trụ này đều có thể biểu diễn dưới dạng phương trình vi phân. Với phương pháp này, hình dáng của vũ trụ cách nay mười tỷ năm, hai mươi tỷ năm, thậm chí một giây cho đến 0,1 giây sau vụ nổ cũng sẽ được làm sáng tỏ. Thế nhưng, chúng ta sẽ không bao giờ biết được cái thời khắc bằng 0, tức là cái tích tắc xảy ra vụ nổ, cho dù chúng ta có dùng mọi cách để lội ngược dòng thời gian và cố gắng mô phỏng nó. Còn một chuyện nữa, đó là vũ trụ của chúng ta sẽ kết thúc như thế nào... Vũ trụ này là mở hay đóng? Chúng ta sẽ không bao giờ biết được sự khởi đầu và kết thúc, chúng ta chỉ biết được những gì đang diễn ra ở khoảng giữa của nó mà thôi. Cậu không thấy đời người cũng giống vậy sao?

    Nói rồi Ryuji vỗ vỗ vào cánh tay Asakawa.

    - Cậu nói phải, khi xem lại album, mình cũng phần nào hình dung được hồi ba tuổi hay lúc mới sinh nom mình ra sao.

    - Đúng không? Nhưng con người không bao giờ biết được trước khi chào đời và sau khi chết đi thì như thế nào.

    - Sau khi chết? Thì chết rồi là hết, là chẳng còn gì nữa chứ sao?

    - Cậu đã chết bao giờ chưa?

    - Chưa. - Asakawa thành thật lắc đầu.

    - Thế thì làm sao cậu biết được thế giới bên kia như thế nào?

    - Ý cậu là linh hồn có thật?

    - Tớ chỉ có thể nói rằng tớ không biết. Nhưng khi xét tới sự chào đời của một sinh mệnh, tớ cảm thấy mọi thứ sẽ dễ dàng hơn với việc giả định rằng linh hồn tồn tại. Còn giới sinh vật học phân tử hiện đại thì toàn nói bậy. Cậu biết cánh đó nói gì không? "Chỉ cần cho hơn hai mươi loại a-xit a-min, mỗi loại vài trăm đơn vị vào một cái âu, vừa khoắng tít vừa rắc lên đó mấy vốc năng lượng điện, ấy thế là chúng ta đã có ngay được chất đạm, cái gốc của sự sống". Bọn chúng nói vậy đấy. Cậu tin được không? Xằng bậy. Thà nói đại rằng chúng ta là những tạo vật của Thượng Đế cho dễ hiểu. Còn tớ thì tin rằng, có một dạng thức năng lượng hoàn toàn khác, mà chính xác hơn là một loại ý chí nào đó đã hoạt động đúng vào cái thời khắc mà chúng ta ra đời.

    Hơi ghé mặt về phía Asakawa, Ryuji đột ngột chuyển chủ đề.

    - Này, lúc ở kỷ niệm đường, xem chừng cậu có vẻ say sưa với các trước tác của ông giáo sư ấy nhỉ. Có phát hiện ra điều gì lý thú không?

    Gã chợt nhớ ra là gã đang đọc dở dang. Học thuyết của tiến sỹ nói rằng... ý nghĩ hàm chứa năng lượng và năng lượng ấy...

    - Hình như ông ta viết rằng ý nghĩ là năng lượng hay cái gì đại loại thế.

    - Đoạn tiếp theo là gì?

    - Mình không có thời gian đọc hết.

    - Hề hề, thật đáng tiếc, phần hấp dẫn nhất lại nằm ở phía sau. Cái cách bố già ấy trình bày thản nhiên và rất có lý về những người mà người bình thường nào cũng sẽ sốc khi nghe tới sẽ làm cậu khoái ra trò. Nhưng tóm lại, bố già ấy muốn nói rằng ý thức là một thực thể sống có năng lượng.

    - Cái gì? Nghĩa là những suy nghĩ trong đầu chúng ta sẽ biến thành một thực thể sống?

    - Đúng là như thế.

    - Thế thì cực đoan quá.

    - Chính xác là cực đoan, nhưng có một chủ thuyết tương tự đã được bàn đến suốt từ trước công lịch cho tới nay. Cũng không loại trừ đây là một biến thái của thuyết sức sống (Vitalism).

    Nói đến đó, Ryuji bỗng không còn hào hứng với câu chuyện và lại quay về với tấm bản đồ Oshima.

    Không phải gã không hiểu Ryuji định nói gì. Nhưng gã vẫn chưa hết thắc mắc. Họ không thể lý giải bằng khoa học cái thực tế mà họ đang phải đối mặt lúc này. Song vì nó là hiện thực, nên họ chỉ còn cách hành xử theo hiện tượng bên ngoài cho dù không biết được mối quan hệ nhân quả. Việc họ cần làm trước tiên là giải mã câu thần chú và thoát ra khỏi vòng vây của thần chết chứ không phải đi tìm lời giải cho sự bí ẩn của những năng lực siêu nhiên. Gã đồng ý là như thế. Nhưng gã cần ở Ryuji một câu trả lời minh xác hơn.

    Càng ra xa con thuyền càng lắc mạnh. Asakawa bắt đầu lo mình bị say sóng. Gã thấy rất rõ cảm giác nôn nao trong người. Đang lơ mơ ngủ, bất thần Ryuji ngẩng mặt nhìn ra bên ngoài. Biển một màu xanh xám đậm dậy sóng, phía trước, bóng dáng hòn đảo hiện ra mờ tỏ.

    - Asakawa này, tớ vẫn thấy khúc mắc một chuyện.

    - Chuyện gì?

    - Tại sao bốn đứa nhóc không thực hiện câu thần chú?

    ...Tưởng gì, hoá ra chuyện đó.


    - Nó rành rành ra đấy còn gì? Vì bọn chúng không tin vào nội dung của cuốn băng.

    - Tất nhiên, tớ cũng đã từng cho là như vậy. Và chính vì thế mà bọn chúng mới chơi cái trò nghịch dại là xoá đi câu thần chú. Nhưng mà đột nhiên tớ lại nhớ ra một chuyện. Hồi ở trung học, vào một đêm ngủ chung trong chuyến dã ngoại của nhóm điền kinh, thằng Saito đã lao như tên bắn vào trong phòng. Cậu còn nhớ chứ, cái thằng Saito cớm nắng ấy? Cả nhóm có mười hai đứa, đều ngủ trong một phòng. Lúc lao vào phòng, hắn la lớn lên là có ma trong khi răng vẫn đánh vào nhau cầm cập. Hắn bảo, lúc vừa mở cửa toilet ra thì bỗng nhiên hắn nhìn thấy khuôn mặt đang khóc của một đứa bé gái ở chỗ cái bóng của chiếc thùng rác bên cạnh la-va-bô. Trừ tớ ra, cậu biết mười đứa còn lại phản ứng như thế nào không?

    - Chắc là năm thằng tin còn năm thằng thì cười nhạo chứ gì?

    Ryuji lắc đầu.

    - Thế giới phim kinh dị hoặc truyền hình thì như thế. Đó là cái mô típ kiểu như ban đầu sẽ chẳng ai tin, thế rồi con quái vật sẽ tấn công từng người từng người một... Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Mười thằng đó, chẳng chừa đứa nào, đều tin lời hắn cả. Đừng nghĩ chúng quá nhát gan. Các cuộc thử nghiệm với những nhóm khác cũng cho cùng kết quả. Nỗi sợ hãi mang tính căn nguyên đã được tạo lập sẵn trong bản năng con người rồi.

    - Ý cậu cho rằng bốn đứa trẻ không tin vào đoạn băng là không bình thường?

    Nghe Ryuji nói, Asakawa chợt nhớ lại nét mặt khóc thét của con gái khi nhìn thấy chiếc mặt nạ, và cả mối băn khoăn vào lúc ấy rằng, tại sao con bé lại biết sợ mặt nạ quỷ?

    - Tớ không nói vậy, thực ra đoạn phim đó không có cốt truyện cũng chẳng đáng sợ cho lắm. Nên khả năng bọn chúng không tin là không thể phủ nhận. Nhưng chẳng lẽ bọn chúng không thấy bận tâm chút nào? Là cậu thì cậu sẽ tính sao? Nếu thực hiện câu thần chú mà thoát được cái chết, liệu cậu có thử làm không, mặc dù có thể không tin? Có gì lạ đâu nếu một trong số bọn chúng chơi trò ăn mảnh. Đành rằng lúc đó nó phải cố tỏ ra can đảm trước mặt ba đứa khác, nhưng về Tokyo nó vẫn có thể kín đáo thực hiện cơ mà.

    Cái linh cảm xấu trong gã lại tăng lên. Thực ra, bản thân Asakawa cũng đã từng nghĩ tới điều này.

    ...Nếu thần chú là một thứ không thể thực hiện được thì sao?

    - Có thể rằng đó là một mệnh lệnh bất khả thi nên chúng đã tự thuyết phục mình theo chiều hướng không tin vào nó?

    Lúc ấy, trong óc gã bỗng nảy ra một tình huống như thế này. Có thể, đứa bé gái đã bị một kẻ nào đó sát hại và nó muốn gửi đi thông điệp ấy hòng mượn tay người khác rửa hận cho mình...

    - Tớ biết cậu đang nghĩ gì. Và nếu quả là như vậy thì cậu sẽ hành động ra sao?

    Nếu câu thần chú là một mệnh lệnh kiểu như hãy giết chết một ai đó thì liệu rằng gã có thể cướp đi sự sống của một con người không hề quen biết để cứu lấy sinh mệnh của mình không? Asakawa tự vấn. Nhưng còn một vấn đề bức thiết hơn, ấy là ai sẽ thực hiện câu thần chú khi mà sự thật là như thế? Asakawa lắc mạnh đầu. Gã không nên nghĩ tới những chuyện ngu ngốc như vậy. Gã chỉ còn biết cầu mong để những yêu cầu của cái kẻ tên Yamamura Sadako là thứ mà ai cũng có thể thực hiện được.

    Những đường nét của hòn đảo đã rõ ràng, con thuyền chầm chậm xoay hướng để cập vào cầu cảng Motomachi.

    - Này Ryuji, mình muốn nhờ cậu một chuyện. - Giọng Asakawa rành rọt.

    - Gì thế?

    - Nếu mình không còn đủ thời gian, nghĩa là... - Asakawa không muốn nhắc đến chữ chết. - Nếu cậu tìm ra chân tướng của câu thần chú vào ngày hôm sau, thì cậu hãy...

    Ryuji không để gã nói hết.

    - Tất nhiên. Để đó cho tớ. Tớ sẽ có trách nhiệm cứu vợ và cún con nhà cậu.

    Asakawa chìa ra tấm danh thiếp mà gã đi ghi ở mặt sau một số điện thoại.

    - Mình định gửi vợ con về nhà ngoại ở Ashikaga cho tới khi giải quyết xong vụ này, đây là số điện thoại nhà vợ mình. Mình đưa luôn cho cậu kẻo quên.

    Ryuji nhét tấm danh thiếp vào trong túi mà không thèm nhìn.

    Nhà tàu thông báo thuyền đã cập cảng Motomachi. Asakawa gọi điện cho vợ từ trên cầu cảng hòng thuyết phục cô về nhà bố mẹ đẻ ít lâu. Gã không biết khi nào mình mới có thể trở lại Tokyo. Chưa biết chừng gã sẽ phải đón cái kết cục của mình ở trên đảo Oshima này. Gã không sao chịu được khi tưởng tượng ra cảnh vợ con đang sống trong sợ hãi nơi căn hộ chung cư chật hẹp.

    Ryuji cất tiếng hỏi trong khi bước xuống cầu tàu.

    - Này Asakawa, cậu thương vợ con đến thế cơ à?

    Một câu hỏi chẳng có vẻ gì là Ryuji khiến gã bật cười.

    - Ngay cả cậu rồi cũng sẽ hiểu tại sao.

    Tuy nhiên, Asakawa không nghĩ rằng Ryuji sẽ có được một gia đình tử tế.



    _tiếp: Chương III / 7_

  5. #24
    Ninja
    TakeshiObata's Avatar


    Thành Viên Thứ: 71253
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 155
    Thanks
    109
    Thanked 44 Times in 22 Posts
    Đọc Ring lần đầu là 4 năm trước...
    Đúng là đỉnh cao của truyện kinh dị mọi thời đại...

  6. #25
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts

    Chương III - Lốc xoáy

    7




    Đứng trên cầu cảng Oshima, gió lộng hơn ở Atami. Ngẩng mặt lên trời, Asakawa thấy nhiều đám mây hối hả bay từ tây sang đông, những con sóng xô mạnh vào thành cầu làm khối bê tông rung lên dưới chân gã. Mưa chưa lớn, nhưng đã có những giọt nước được gió mang theo rơi thẳng xuống mặt. Hai người không mang ô, đút hai tay vào túi, so vai và rảo bước thật nhanh theo chiếc cầu tàu thò ra biển.

    Nhiều người dân đảo cầm những tấm biển cho thuê xe hơi hoặc những lá cờ phướn của quán trọ đang đứng chờ du khách. Asakawa ngẩng đầu lên và đưa mắt tìm một người đã hẹn trước. Trước khi lên tàu cao tốc rời cảng Atami, gã đã nhờ toà soạn cung cấp số điện thoại của ban tin tức Oshima và thỉnh cầu sự hợp tác của một cộng tác viên tên là Hayatsu. Chưa có tờ báo nào đặt phân xã ở Oshima, thay vào đó, họ thuê người địa phương làm cộng tác viên. Cộng tác viên có nhiệm vụ theo dõi mọi diễn biến trên đảo và liên lạc về tổng xã nếu phát hiện thấy những sự kiện hay những mẩu chuyện đặc biệt. Tất nhiên, sự hợp tác của họ là không thể thiếu trong những trường hợp phóng viên của tổng xã ra tác nghiệp trên đảo. Với trường hợp của Hayatsu, ông về ở hẳn trên đảo Oshima sau khi thôi làm việc cho báo M. Phạm vi phụ trách của ông là toàn bộ bảy hòn đảo thuộc quần đảo Izu nằm về phía nam thị trấn Oshima, ông được phép trực tiếp viết bài và gửi về toà soạn mà không cần chờ phóng viên của tổng xã mỗi khi diễn ra sự kiện nào dó. Bản thân Hayatsu nắm giữ một mạng lưới đưa tin riêng trên đảo, vì thế, công việc điều tra của gã chắc chắn sẽ tiến triển nhanh hơn nếu có được sự cộng tác của người này.

    Hayatsu vui vẻ chấp nhận lời đề nghị của Asakawa qua điện thoại và hứa sẽ ra đón họ tại cầu cảng. Vì không biết mặt nhau nên Asakawa thông báo với Hayatsu rằng họ đi hai người và mô tả sơ qua về đặc điểm cơ thể của mình.

    - Xin lỗi có phải anh là Asakawa?

    Có giọng nói cất lên từ phía sau.

    - Vâng, là tôi đây.

    - Tôi là Hayatsu, làm việc ở ban tin tức Oshima.

    Hayatsu vừa đưa ô lên che vừa chào họ với một nụ cười dễ mến.

    - Xin lỗi bác vì đường đột quá.

    Vừa bước đi Asakawa vừa giới thiệu Ryuji rồi họ nhanh chóng leo lên xe ô tô của Hayatsu. Không thể nói chuyện bên ngoài xe vì tiếng gió rít ù ù. Lòng xe khá rộng so với một chiếc ô tô hạng nhỏ. Asakawa ngồi lên ghế phụ còn Ryuji ngồi ở băng sau.

    - Chúng ta đến thẳng nhà Yamamura Takashi chứ? - Hayatsu hỏi, hai tay đặt trên vô lăng. Đã hơn sáu mươi nhưng tóc ông vẫn khá dày, tuy có nhiều sợi bạc.

    - Bác đã tìm được nhà Yamamura Sadako rồi ạ?
    Trên điện thoại, Asakawa đã nói qua với Hayatsu về ý định điều tra một nhân vật có cái tên Yamamura Sadako.

    - Vì ngôi làng ấy nhỏ lắm. Nói đến họ Yamamura ở Sashikichi thì chỉ có một thôi nên tôi tìm thấy ngay. Nhà Yamamura vốn làm nghề đánh cá, tuy vậy vào mùa hè cũng có kinh doanh thêm nhà trọ. Hay là đêm nay tôi để các anh nghỉ lại đó... Để các anh ở lại nhà tôi cũng được nhưng phải cái chật chội và bừa bộn quá, chỉ sợ làm phiền hai người...

    Hayatsu nói vậy rồi cười. Ông sống cùng với vợ. Quả tình ông không nói dối, nhà ông chẳng đủ chỗ để mời hai vị khách ngủ lại. Asakawa quay lại sau nhìn Ryuji.

    - Tớ thì sao cũng được.


    Hayatsu tăng tốc cho xe phóng thẳng về phía Sashikichi, ngôi làng nằm ở cực nam của đảo. Nói là tăng tốc chứ chẳng chạy được nhanh, vì đường vành đai lượn quanh đảo vừa hẹp vừa lắm khúc cua. Những chiếc xe chạy ngược chiều phần lớn là xe hạng nhỏ. Tầm mắt mở rộng về phía bên phải, biển hiện ra và tiếng gió cũng đổi khác. Biển nhuộm màu da trời, sâu thẳm, những đợt sóng cuộn lên, ngọn sóng trắng lấp lánh. Nếu không có chúng, đường ranh giới giữa biển và trời, thậm chí giữa biển và đất liền hẳn đã trở nên mờ nhạt. Nhìn mãi cảnh tượng ấy khiến lòng Asakawa buồn bã. Thông tin về cơn bão đang phát trên đài lại càng làm gã rầu rĩ hơn. Tới một ngã ba, chiếc xe rẽ vào con đường bên phải và bắt gặp một lối đi trồng toàn hoa trà, nó chui qua dưới cái vòm ấy. Chắc tại mưa gió lâu ngày cướp đi lớp đất phủ, dưới những gốc cây, vô số những chiếc rễ trần trụi cong queo trồi ra và xoắn xuýt vào nhau. Vẻ mơn mởn ẩm ướt vì nước mưa trên bề mặt chúng bất chợt khiến Asakawa rơi vào một cảm giác như đang luồn lách trong ruột một con quái vật khổng lồ.

    - Còn một đoạn nữa là đến Sashikichi rồi. - Hayatsu nói. - Nhưng tôi không nghĩ là cô Yamamura Sadako còn ở đó. Những chuyện cụ thể hơn các anh cứ hỏi ông Yamamura Takashi. Nghe đâu ông ấy là anh em họ với mẹ của Yamamura Sadako.

    - Cô Yamamura Sadako năm nay bao nhiêu tuổi rồi ạ? - Asakawa hỏi. Từ nãy tới giờ, Ryuji chỉ ngồi bó gối ở ghế sau, chẳng hề mở miệng câu nào.

    - Tôi chưa gặp bao giờ, nhưng nếu cô ta còn sống thì năm nay chắc khoảng bốn hai, bốn ba gì đấy.

    ... Nếu còn sống? Tại sao ông ấy lại dùng cách nói này? Asakawa bỗng thấy nghi ngại. Hay là cô ta đã biệt tích từ lâu? Đã đặt chân lên đến đảo mà không thu lượm được tin tức gì, gã chỉ còn cách đợi chờ kết cục. Nỗi hoang mang thoáng qua trong đầu gã.

    Đang băn khoăn thì chiếc xe dừng lại trước cửa một ngôi nhà hai tầng có tấm biển đề "Quán trọ Yamamura". Ngôi nhà tọa lạc trên một sườn dốc thoai thoải nhìn ra biển, những ngày đẹp trời hẳn là phong cảnh dưới kia sẽ rất tuyệt vời. Ngoài khơi, cái bóng hình tam giác của một hòn đảo hiện lên lờ mờ. Đó là đảo Toshima.

    - Hôm nào trời nắng to, từ đây ta có thể nhìn thấy được đảo Nijima, Shikinejima, và cả đảo Kozushima nữa.

    Hayatsu đưa tay chỉ tít về phía nam và nói với vẻ tự hào.


    _Hết chương III / 7_

  7. #26
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts

    Chương III - Lốc xoáy

    8




    - Cậu bảo tớ điều tra về cô ta, nhưng điều tra cái gì bây giờ?

    ...Tham gia đoàn kịch năm 1965? Hắn đùa chắc? Chuyện cách nay đã hai mươi nhăm năm rồi còn gì?


    Yoshino rủa thầm trong bụng.

    ...Lần theo dấu vết của một tên tội phạm cách đây một năm cũng đủ bở hơi tai chứ nói gì đến hai mươi nhăm năm.

    - Mọi thứ, gì cũng được: cuộc đời, công việc và mong muốn của cô ta.

    Yoshino chỉ còn biết thở dài. Anh ta vừa kẹp ống nghe vào vai vừa kéo quyển sổ tay ở mép bàn về phía mình.

    - ... Thế hồi ấy cô ta bao nhiêu tuổi?

    - Mười tám tuổi. Sau khi tốt nghiệp cấp ba ở Oshima, cô ta lên Tokyo và gia nhập đoàn kịch Hisho.

    - Oshima? - Yoshino thôi viết, cau mày. - Cậu đang gọi điện từ đâu đấy?

    - Từ Sashikichi trên đảo Izu Oshima.

    - ... bao giờ về?

    - Cố gắng sớm nhất có thể.

    - Cậu có biết là bão đang vào không?

    Tất nhiên, ở trên đảo thì ai mà chẳng biết, thế nhưng cái tình huống đầy kịch tính và nhuốm màu sắc không tưởng này chợt khiến Yoshino thú vị. Hạn chót là tối ngày kia, vậy mà rất có thể hắn sẽ không về được vì bị mắc kẹt trên đảo.

    - Đường biển và đường hàng không không thế nào hả anh? - Asakawa vẫn mù mờ về cơn bão.

    - Tớ không biết, nhưng cứ tình hình này thì chắc là...

    - Huỷ chuyến...

    - ... chắc là vậy.

    Cho tới giờ, Asakawa chưa hề nhận được một thông tin chính xác nào về cơn bão vì còn mải đuổi theo tung tích của Yamamura Sadako. Từ lúc tới cảng Oshima cái dự cảm không lành ấy đã lởn vởn trong đầu gã. Nhưng phải đến khi chính miệng gã thốt ra hai tiếng huỷ chuyến, nó mới lớn lên thành một nỗi hoang mang thực sự. Vẫn cầm chiếc điện thoại trên tay, Asakawa bỗng chìm vào im lặng.

    - Thôi nào, cậu đừng lo. Chưa có quyết định rõ ràng mà. - Yoshino cố làm ra giọng vui vẻ rồi lái câu chuyện sang hướng khác. - Nghĩa là, các cậu đã điều tra xong giai đoạn trước năm mười tám tuổi của Yamamura Sadako rồi phải không?

    - Cũng sơ sơ thôi...

    Vừa trả lời Asakawa vừa lắng tai nghe tiếng gió và tiếng sóng biển từ trong bốt điện thoại.

    - Cậu còn có manh mối nào khác nữa không? Chẳng lẽ chỉ có mỗi chi tiết đoàn kịch Hisho?

    - Vâng, còn một vài điểm nữa. Yamamura Sadako sinh năm 1947 ở Sashikichi trên đảo Izu Oshima, mẹ là Shizuko, à, anh ghi cả cái tên này nữa: Yamamura Shizuko, năm 1947 bà ta hai mươi hai tuổi. Vừa sinh xong, Shizuko gửi Sadako cho người bà của mình nuôi rồi bỏ nhà lên Tokyo...

    - Tại sao bà ta để lại đứa bé trên đảo?

    - Vì một người đàn ông. Anh ghi giùm em cả cái tên này nữa: Ikuma Heihachiro, khi ấy là phó giáo sư Khoa Thần kinh học Đại học T., người yêu của Yamamura Shizuko...

    - Như vậy thì Yamamura Sadako là con chung của Shizuko và Ikuma Heihachiro đúng không?

    - Chưa có bằng chứng xác thực, nhưng hiện thời có thể khẳng định suy đoán đó là đúng.

    - Hai người không cưới xin gì hết?

    - Vâng, vì Ikuma Heihachiro đã có vợ con rồi.

    Hoá ra là một cuộc tình dan díu... Yoshino liếm đầu bút chì.

    - Được rồi, cậu tiếp đi.

    - Ba năm sau, năm 1950, Shizuko về thăm quê và gặp lại con gái Sadako. Bà ta sống ở đó ít lâu nhưng chỉ đến cuối năm đó, bà ta lại ra đi, lần này thì mang theo cả Sadako. Hai mẹ con Shizuko và Sadako đã ở đâu, làm những gì suốt năm năm sau đó thì chưa rõ. Tuy nhiên, vào giữa những năm năm mươi, một người anh em họ của Yamamura Shizuko sống trên đảo có nghe đồn rằng Shizuko đã trở nên nổi tiếng và đang rất thành công.

    - Bà ta đã gây ra vụ gì à?

    - Không rõ nữa. Người anh em họ của Shizuko chỉ kể rằng có nghe phong thanh về bà ta mà thôi. Nhưng khi em chìa tấm danh thiếp nhà báo ra thì ông ta bảo, cánh săn tin các cậu phải rõ hơn tôi chứ. Xem cái cách nói ấy thì có vẻ như trong năm năm từ 1950 đến 1955, hai mẹ con Shizuko và Sadako đã làm một việc gì đó khiến giới truyền thông phải xôn xao. Tuy nhiên, vì ở đây là cù lao nên thông tin từ đất liền rất khó tới được...

    - Sao? Nghĩa là cậu muốn tớ điều tra chi tiết đó chứ gì?

    - Anh nhanh trí thật đấy.

    - Thằng đểu, điều ấy thì ai mà chả đoán ra.

    - Vẫn còn nữa. Năm 1956, Shizuko đem theo Sadako về làng nhưng trông bà ta tiều tụy như biến thành một người khác. Người anh họ có hỏi gì thì bà ta cũng không buồn trả lời, chỉ suốt ngày u uất và ư ử hát những câu không rõ nghĩa để cuối cùng gieo mình xuống miệng núi lửa Mihara tự vẫn. Khi ấy bà ta ba mươi mốt tuổi.

    - Cậu muốn tớ điều tra cả cái lý do bà ta tự sát nữa chứ gì?

    - Nhất định anh phải giúp em vụ này.

    Asakawa cúi gập người trong khi vẫn đang cầm ống nghe. Nếu bị mắc kẹt ở trên đảo, gã chỉ còn có thể trông cậy vào Yoshino. Gã thấy hối hận vì cả hai người đã cùng kéo nhau tới chỗ này. Một ngôi làng nhỏ như Sashikichi thì chỉ cần Ryuji là đủ. Đáng lẽ gã phải ở lại Tokyo, chờ Ryuji liên lạc về rồi cùng Yoshino hành động. Kế ấy rõ ràng là sẽ hiệu quả hơn.

    - Tớ sẽ cố trong khả năng có thể. Nhưng mà cậu không nghĩ rằng ta cần thêm người à?

    - Em sẽ gọi điện cho Tổng biên tập Oguri để nhờ huy động thêm vài người nữa.

    - Ừ, làm như thế đi.

    Nói thì nói thế thôi chứ bản thân Asakawa cũng không dám tin. Ai mà tin được một tay tổng biên tập luôn miệng ca cẩm thiếu người như Oguri lại có thể dành cho họ những biên tập viên quý giá của ông ta.

    - Để em kể tiếp. Sau khi mẹ tự sát, Sadako ở lại Sashikichi và được người bác họ nuôi nấng. Ngôi nhà của người này hiện đang dùng vào việc kinh doanh nhà trọ... - Asakawa định nói rằng gã đang cùng với Ryuji trọ tại chính ngôi nhà ấy nhưng lại thôi, vì gã nghĩ là thừa. - Năm lớp bốn, việc Sadako tiên đoán rằng núi lửa Mihara sẽ phun trào vào năm sau khiến cô bé nổi danh khắp trường. Anh biết không, năm 1956, núi lửa Mihara phun trào đúng như lời sấm của Sadako.

    - Ghê gớm nhỉ. Giá kể mà có cô ta thì cứ dẹp quách cái Ủy ban Dự báo Động đất đi cho rảnh nợ.

    Có lẽ Asakawa cũng chẳng cần nói thêm rằng tin đồn về sự linh ứng đã lan ra khắp đảo và tới tai mạng lưới săn tin của tiến sỹ Miura. Tuy nhiên, ở chi tiết này, có một điểm quan trọng...

    - Chính vì sự kiện này mà kể từ đó, Sadako thường xuyên bị những người dân đảo lui tới xin cho biết về tương lai của họ. Nhưng cô ta không bao giờ trả lời. Cô ta chỉ đáp lại rằng cô ta hoàn toàn không có cái khả năng ấy.

    - Vì khiêm tốn?

    - Không rõ nữa. Thế rồi khi tốt nghiệp cấp ba, như chỉ chờ có vậy, cô ta lên Tokyo. Sau đó, chỉ có duy nhất một tấm bưu thiếp được gửi về cho người họ hàng đã nuôi nấng cô ta. Tấm bưu thiếp đại ý viết rằng cô ta đã vượt qua kỳ sát hạch và gia nhập đoàn kịch Hisho. Rồi từ ấy đến nay, Sadako bặt vô âm tín, không một ai trên đảo biết cô ta đang ở đâu và làm gì.

    - Tóm lại, đầu mối duy nhất để lần ra dấu vết của cô ta từ sau quãng thời gian đó là đoàn kịch Hisho chứ gì?

    - Rất tiếc là như vậy...

    - Được rồi, ta soát lại một lượt nhé. Tớ sẽ điều tra lý do khiến giới báo chí xôn xao vì Yamamura Shizuko, lý do bà ta nhảy xuống miệng núi lửa và việc Sadako đã làm gì, ở đâu sau ngày tham gia đoàn kịch khi cô ta mười tám tuổi. Tóm lại là hai vấn đề, một liên quan đến mẹ và một liên quan đến con.

    - Đúng vậy.

    - Làm cái nào trước?

    - Sao ạ?

    - Tớ đang hỏi cậu muốn tớ điều tra bà mẹ trước hay cô con gái trước? Cậu không còn nhiều thời gian đúng không?
    Tất nhiên, Yamamura Sadako mới là vấn đề trực tiếp.

    - Cô con gái trước.

    - Rõ rồi. Ngay ngày mai tớ sẽ có mặt ở văn phòng đoàn kịch Hisho.

    Asakawa nhìn đồng hồ. Mới hơn sáu giờ chiều một chút. Giờ này chắc sàn tập của đoàn kịch vẫn còn mở cửa.

    - Anh Yoshino, anh đi luôn tối nay được không?

    Yoshino thở một cái rõ to rồi khẽ lắc đầu.

    - Asakawa này, cậu thông cảm cho tớ đi, tớ còn có công việc của mình. Tớ còn cả núi bản thảo phải hoàn tất trong đêm nay. Thực ra thì ngày mai tớ cũng...

    Yoshino ngừng lời ở đó. Nếu nói thêm nữa lại thành ra thái độ ban ơn. Yoshino bao giờ cũng chú ý tới từng chi tiết nhỏ để chứng tỏ mình là một thằng đàn ông khoáng đạt.

    - Em van anh đấy, Yoshino. Ngày kia là thời hạn của em rồi.

    Biết rất rõ nội tình của nghề báo, Asakawa không dám hối thêm nữa. Gã chỉ còn cách im lặng chờ đợi câu trả lời của Yoshino.

    - ... Cậu đã nói thế thì đành vậy. Được rồi, tớ sẽ cố thu xếp trong tối nay, nhưng không hứa chắc đâu đấy.

    - Em mắc nợ anh lần này.

    Asakawa cúi đầu rồi chuẩn bị gác máy.

    - Này, chờ đã. Tớ vẫn chưa được nghe điểm mấu chốt.

    - Điểm gì?

    - Rốt cuộc, Yamamura Sadako có liên quan gì tới đoạn băng mà cậu xem?

    Asakawa ngừng một lát.

    - Em có nói anh cũng không tin.

    - Thì cậu cứ nói đi.

    - Đoạn băng đó không phải được ghi bằng máy quay video.

    Asakawa dừng lại trong một khoảng thời gian đủ dài để chờ cho ý nghĩ của một câu nói đi vào đầu Yoshino.

    - Đoạn phim là một chuỗi lẫn lộn những hình ảnh được ghi bằng mắt của Yamamura Sadako và những hình ảnh tưởng tượng trong tâm trí cô ta, chúng kết hợp với nhau một cách lộn xộn và phi tuyến tính.

    - Hả? - Từ ngữ bỗng chốc biến mất khỏi miệng Yoshino.

    - Không thể tin được phải không?

    - Một kiểu... chụp ảnh bằng ý nghĩ?

    - Khái niệm chụp ảnh bằng ý nghĩ chưa chính xác trong trường hợp này. Có lẽ cần phải gọi là phóng hình bằng ý nghĩ mới đúng, vì hình ảnh được đưa vào bóng hình bằng năng lượng của ý nghĩ.

    Chữ phóng hình làm Yoshino liên tưởng tới phóng tinh nên anh ta phá lên cười. Asakawa không giận dỗi, gã tự lý giải về phản ứng tâm lý ấy và lặng lẽ đứng nghe tiếng cười vô duyên của Yoshino.

  8. #27
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts
    9:40 tối. Yoshino xuống khỏi tuyến tàu điện ngầm Marunouchi ở Yotsuya Sanchome. Trong lúc bước lên những bậc cấp dẫn từ sân ga lên mặt đất, một cơn gió mạnh suýt nữa làm bay chiếc mũ trên đầu Yoshino, anh ta lấy hai tay giữ mũ và nhìn ra xung quanh. Không phải tìm lâu, Yoshino ngay lập tức nhận ra trạm cảnh sát cứu hoả mà anh ta đã ghi nhớ để làm mốc ở góc đường. Địa điểm cần đến nằm cách đó chưa đầy một phút đi bộ.

    Bên cạnh tấm biển đề chữ "Đoàn kịch Hisho" là cầu thang dẫn xuống tầng hầm. Yoshino nghe thấy những tiếng độc thoại hoà cùng với lời ca của đám trai gái trẻ tuổi vọng lên từ bên dưới. Có lẽ bọn họ định tập cho tới trước chuyến tàu cuối vì buổi công diễn đang đến gần. Yoshino biết rất rõ điều này dù không phải phóng viên ban văn nghệ. Một người thường xuyên phải theo đuổi những vụ án hình sự như Yoshino có gì đó không thật thoải mái khi phải tới sàn tập của một đoàn kịch hạng trung như thế này.

    Chiếc cầu thang nối xuống tầng hầm được làm bằng sắt. Mỗi bước chân của Yoshino lại phát ra một tiếng kêu cồm cộp. Nếu như các thành viên sáng lập của đoàn kịch này không còn nhớ gì về Yamamura Sadako nữa thì có nghĩa đầu mối cuối cùng sẽ tuột mất và cuộc đời của một nhà siêu năng lực vô tiền khoáng hậu sẽ chìm vào bóng tối. Đoàn kịch Hisho được thành lập năm 1957, Yamamura Sadako gia nhập năm 1956. Những thành viên sáng lập còn lại hiện tại không quá bốn người, trong đó có Uchimura, nhà viết kịch kiêm đạo diễn và là đại diện của đoàn.

    Yoshino đưa danh thiếp cho một diễn viên học nghề trạc hai mươi tuổi đang đứng ở lối vào phòng tập và nhờ anh ta gọi Uchimura.

    - Thưa thầy, có phóng viên của báo M. muốn gặp thầy.

    Bằng chất giọng âm vang như của một anh kép, cậu diễn viên học nghề gọi đạo diễn Uchimura, người đang ngồi sát mép tường theo dõi các cử động của diễn viên. Uchimura giật mình quay lại, khi biết có nhà báo đến tìm ông ta ra mặt niềm nở và tiến lại gần Yoshino. Đoàn kịch nào cũng vậy, luôn luôn tiếp đãi báo giới một cách tử tế. Vì chỉ cần một bài viết nhỏ được đăng trên mục văn nghệ là đủ khiến doanh số bán vé tăng mạnh. Chắc tay phóng viên này tới để đưa tin về quang cảnh tập luyện cho vở diễn một tuần nữa đây mà, Uchimura nghĩ. Ông ta tỏ ra dễ mến là bởi muốn tận dụng cơ hội này, khi đoàn kịch của Uchimura chưa bao giờ có được một diện tích kha khá trên báo M. Nhưng ngay khi biết lý do Yoshino tới đây, Uchimura lập tức mất hứng và tỏ vẻ đang rất bận. Thế rồi, ông ta đưa mắt nhìn khắp phòng tập và dừng lại chỗ một nam diễn viên nhỏ thó đã hơn năm mươi tuổi đang ngồi trên ghế. "Shin, lại đây cưng!", Uchimura gọi người đàn ông tới bằng thứ giọng có âm vực hơi cao. Cái gọi trìu mến dành cho một người đàn ông đã quá năm mươi, mà không, là chính cái giọng đàn bà và đôi cẳng chân dài ngoẵng ẻo lả và thiếu cân đối của Uchimura khiến một tay cơ bắp như Yoshino thấy gai người. Bọn họ thuộc một loài khác với mình, anh ta nghĩ.

    - Từ giờ đến cảnh hai không có vai nào của cưng nên cưng ra tiếp hộ mình anh bạn này nhé. Anh ta muốn biết về Yamamura Sadako. Cưng vẫn nhớ cái con bé ghê răng ấy đúng không?

    Yoshino đã từng nghe thấy giọng của người đàn ông tên Shin này trong những bộ phim nước ngoài được ***g tiếng trên ti vi. Arima Shin nổi tiếng trong những vai ***g tiếng hơn là trên sân khấu. Ông ta cũng là một thành viên đã sáng lập ra đoàn kịch.

    - Yamamura Sadako?

    Arima đưa tay lên cái trán đã hói gần một nửa và lần lại phần ký ức của hai lăm năm về trước.

    Giọng Arima hơi có vẻ thất thanh. Xem cái cách nói ấy, Yoshino đoán chắc đó là một phụ nữ có ấn tượng khá sâu sắc đối với ông ta.

    - Cưng nhớ ra rồi hả? Thế thì cưng dẫn anh bạn này lên phòng mình trên tầng hai nhé, mình phải tiếp tục tập đây.
    Uchimura khẽ cúi chào rồi rảo bước về phía tốp diễn viên. Trên quãng đường về đến chỗ ngồi ban nãy, hẳn là ông ta đã lấy lại bộ mặt của một đạo diễn quyền uy.

    Mở cánh cửa có dòng chữ "Phòng giám đốc", Arima chỉ bộ sofa bọc da mời Yoshino ngồi. Có phòng giám đốc nghĩa là có giám đốc, mà có giám đốc thì đoàn kịch phải là một công ty. Yoshino đồ rằng ông đạo diễn vừa rồi chính là giám đốc.
    - Anh vất vả quá, trời thì đang mưa bão thế này.

    Mồ hôi ánh lên trên khuôn mặt đỏ bừng vì tập luyện của Arima, sâu trong đôi mắt ấy, Yoshino bắt gặp một nụ cười khá dễ mến. Trong khi ông đạo diễn ban nãy thuộc kiểu thích dò xét bụng dạ đối phương thì Arima lại có vẻ như sẽ trả lời mọi câu hỏi mà không hề giấu diếm. Công việc lấy tin nhẹ nhàng hay cực nhọc tùy thuộc vào tính cách của người tiếp chuyện.

    - Xin lỗi vì phiền ông trong lúc bận rộn thế này.

    Yoshino bắt đầu một động tác quen thuộc là rút ra cuốn sổ và cầm cây bút trên tay trong khi ngồi xuống.

    - Tôi không nghĩ là còn được nghe nhắc đến cái tên Yamamura Sadako vào lúc này nữa. Chuyện cách đây đã khá lâu rồi còn gì.

    Arima đang hồi tưởng lại thời thanh xuân của mình. Ông nuối tiếc cái sức trẻ vào cái thời mà ông chạy khỏi một gánh hát thương mại để cùng đám bạn lập ra một đoàn kịch mới.

    - Ban nãy, ông có nhắc tới tên cô gái ấy với một ấn tượng khá đậm, tại sao vậy?

    - Để tôi nhớ lại xem, cô gái đó tham gia đoàn kịch khi nào... Có lẽ là sau khi đoàn kịch ra đời được mấy năm. Hồi ấy đoàn kịch đang làm ăn phát đạt nên số người xin vào năm nào cũng tăng lên. Mà thôi đấy là chuyện khác, còn Yamamura Sadako ấy à, cô ta kỳ lạ lắm.

    - Kỳ lạ nghĩa là sao?

    - Nói thế nào nhỉ. - Arima chống tay lên cằm nghĩ ngợi. Nhắc ra mới nhớ, tại sao mình lại có ấn tượng với cô gái đó?

    - Cô ta có đặc điểm nào nổi bật không?

    - Không, bề ngoài trông rất bình thường, tuy có hơi cao. Cô ta thuần tính và... luôn tách mình ra khỏi tập thể.

    - Tách mình?

    - Phải, anh cũng biết là các diễn viên học nghề thường chơi thân với nhau, nhưng riêng cô ta thì chẳng bao giờ có ý định nhập hội với họ.

    Ở cộng đồng nào cũng có những kiểu người như vậy nên khó mà coi rằng đấy là điểm làm Yamamura Sadako khác người.
    - Nếu nói gọn trong một câu thì ấn tượng của ông về cô ta như thế nào?

    - Nói gọn trong một câu ấy à? Xem nào, cô ta có cái gì đó... hơi đáng sợ.

    Arima không ngần ngại khi dùng hai chữ đáng sợ. Mà hình như Uchimura cũng gọi cô ta là con bé ghê răng ấy. Yoshino không khỏi thông cảm với một cô gái mới mười tám tuổi mà lại bị đánh giá là ghê răng. Yoshino chợt liên tưởng tới một người con gái có tư dung xấu xí.

    - Theo ông thì tại sao cô ta lại có cái vẻ đáng sợ ấy?

    Suy nghĩ một chút sẽ thấy rất lạ. Tại sao hình ảnh về một diễn viên thực tập chỉ tham gia đoàn kịch vỏn vẹn có một năm trời và cách đây những hai mươi lăm năm về trước lại gây cho Arima một ấn tượng rõ nét đến vậy? Chắc chắn phải có điều gì đó khiến Arima không thể quên. Đó là một câu chuyện đã làm cái tên Yamamura Sadako ăn sâu vào ký ức của ông.

    - À, tôi nhớ ra rồi. Chuyện xảy ra chính tại căn phòng này.

    Arima vừa nhìn khắp lượt căn phòng. Ngay khi nhớ ra sự kiện ấy, cả căn phòng, thậm chí cả vị trí của những đồ nội thất ở đây khi nó còn được dùng làm văn phòng đoàn kịch, lại hiện về sống động trong ông.

    - Anh biết đấy, nơi tập luyện của chúng tôi vẫn ở đây suốt từ hồi đoàn kịch được thành lập cho đến giờ, tuy nhiên lúc bấy giờ nó chật chội hơn nhiều. Hồi đó, căn phòng mà chúng ta đang ngồi đây vốn được dùng làm văn phòng của đoàn kịch. Ở đằng kia có một cái tủ đựng đồ cho nhân viên, còn chỗ này là một tấm vách ngăn bằng kính mờ..., và còn có một chiếc ti vi được đặt ở đúng vị trí của chiếc ti vi bây giờ.

    Arima vừa nói vừa chỉ tay về phía đó.

    - Ti vi? - Yoshino thoáng nheo mắt rồi đổi lại tư thế cầm bút.

    - Phải rồi, một chiếc đen trắng đời cũ.

    - Thế rồi sau đó? - Yoshino giục.

    - Hôm ấy, khi buổi tập kết thúc và các thành viên khác đã ra về cả thì tôi trở vào căn phòng này định bụng đọc lại lời thoại của mình một lượt nữa vì còn chưa ưng ý. Lúc tôi đi đến đấy... - Arima chỉ về phía cửa - và ngó vào trong phòng thì thấy màn hình ti vi đang lấp loáng sau tấm kính mờ. Tôi cứ ngỡ là có ai đó đang xem ti vi. Anh đừng cho tôi là nhìn nhầm. Tôi không được trực tiếp thấy những gì đang diễn ra trên màn hình vì vướng bức vách ngăn bằng kính nhưng rõ ràng là có những hình đen trắng lòe nhòe đang nhảy nhót. Không có âm thanh nào hết... Căn phòng không tỏ mặt người, tôi vòng qua tấm kính để xem ai đang ngồi trước máy. Hoá ra là Yamamura Sadako. Nhưng khi tôi vòng qua tấm kính và đứng bên cạnh cô ta thì màn hình đã tắt. Tất nhiên, tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng cô ta đã nhanh tay bấm nút. Ngay lúc đấy, tôi không hề nghi ngờ gì cả. Thế nhưng...

    Arima ngập ngừng khi định nói ra điều sau đó.

    - Ông cứ tiếp đi.

    - Tôi vừa bảo với Yamamura Sadako rằng nếu cô ta không về sớm thì sẽ không còn tàu nữa đâu vừa bật công-tắc chiếc đèn bàn, nhưng mà nó không sáng. Xem xét kỹ thì hoá ra chưa cắm phích. Tôi quỳ xuống định cắm nó vào ổ điện. Đến lúc ấy tôi mới để ý thấy phích cắm của chiếc ti vi cũng đã không còn trong ổ điện...
    Arima vẫn nhớ như in cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi nhìn thấy đầu cắm của chiếc dây điện dẫn từ ti vi đang nằm lăn lóc trên nền nhà.

    - Nghĩa là chiếc ti vi vẫn bật trong khi nguồn bị tắt? - Yoshino xác nhận lại.

    - Đúng thế. Tôi lạnh hết cả người. Bất giác tôi ngẩng lên nhìn Yamamura Sadako. Tôi tự hỏi không biết con bé đang làm gì với chiếc ti vi không có điện? Cô ta không nhìn lại tôi, chỉ dán mắt vào trước màn hình ti vi, nhưng tôi thấy có một nụ cười rất khó nhận biết nở ra trên khóe miệng ấy.

    Hẳn là ấn tượng phải sâu đậm lắm thì Arima mới nhớ tới từng chi tiết như vậy.

    - Thế rồi ông có kể với ai về chuyện này không?

    - Tất nhiên rồi. Tôi kể cho Uchimura, cái ông đạo diễn mà anh vừa gặp ban nãy, và cả Shigemori nữa...

    - Shigemori là ai?

    - Là người sáng lập thực sự của đoàn kịch này. Uchimura là đại diện thứ hai sau ông ấy.

    - Tôi hiểu. Thế sau khi nghe câu chuyện của ông, Shigemori đã phản ứng như thế nào?

    - Lúc đó Shigemori đang đánh mạt chược nhưng ông ấy tỏ ra rất hào hứng. Bởi ông ấy vốn là một tay hám gái... Hình như ông ấy đã nhắm nhe từ trước rồi. Ông ấy bảo sẽ có lúc ông ấy chiếm đoạt Yamamura Sadako. Thế rồi đêm đó, một phần cũng tại hơi men, Shigemori khoe rằng sẽ đột kích vào căn hộ của Sadako, rồi nói năng lung tung làm chúng tôi đến khổ. Chúng tôi không thích hùa theo những lời bỡn cợt của một người say. Thế rồi chúng tôi bỏ ông ấy lại một mình và tất cả ra về. Rốt cuộc mọi việc kết thúc ở đó và chúng tôi không hề biết Shigemori có tới chỗ Yamamura Sadako thật hay không? Bởi vì, ngày hôm sau tuy Shigemori có mặt tại phòng tập nhưng ông ấy câm lặng như một người hoàn toàn khác, mặt bủng beo và ngồi bất động trên ghế, ông ta chết như đang ngủ.

    Yoshino giật mình ngẩng mặt lên.

    - Thế nguyên nhân cái chết là gì?

    - Đứng tim, bây giờ người ta gọi đó là suy tim cấp. Tôi nghĩ rằng ông ấy chết vì đã làm việc quá sức để chuẩn bị cho buổi công diễn trong giai đoạn nước rút.

    - Rốt cuộc, không một ai biết đã có chuyện gì xảy ra giữa Yamamura Sadako và Shigemori?

    Arima gật đầu để khẳng định cho câu hỏi của Yoshino. Vậy là đã rõ, với một nguyên nhân như thế, Yoshino có thể hiểu được tại sao ấn tượng về Yamamura Sadako lại hằn sâu đến vậy trong ký ức Arima.

    - Sau sự việc đó, cô ta thế nào?

    - Cô ta bỏ đoàn kịch. Tôi nghĩ là cô ta đã làm việc ở chỗ chúng tôi trong khoảng một hay hai năm gì đó.

    - Cô ta làm gì sau khi bỏ đoàn kịch?

    - Chà, cái đó thì tôi không biết.

    - Bình thường thì người ta sẽ làm gì sau khi bỏ đoàn kịch?

    - Người nào còn ham nghề thì lại vào một đoàn kịch khác.

    - Liệu Yamamura Sadako thì thế nào nhỉ?

    - Cô ta khá thông minh mà diễn xuất cũng không tồi. Tuy nhiên cô ta lại hơi khiếm khuyết về mặt tính cách. Anh biết đấy, trong cái giới này người ta phải sống dựa vào những mối quan hệ. Với tính cách ấy của cô ta thì e rằng không hợp.
    - Nghĩa là rất có thể cô ấy đã đoạn tuyệt với nghề?

    - Cũng khó nói lắm.

    - Ông có biết người nào nắm được tin tức của cô ta thời gian sau đó không?

    - Để tôi xem, những diễn viên học nghề đồng lứa với cô ta có thể biết.

    - Ông có biết tên và địa chỉ của họ không?

    - Xin anh chờ một lát.

    Arima đứng dậy và đi về phía giá sách. Sau đó ông lấy ra một tập hồ sơ trong đám tài liệu ken dày trên giá. Trong đó có cất giữ những tờ khai lý lịch phải nộp vào kỳ sát hạch.

    - Có tám người. Năm 1956 có tất cả tám diễn viên học nghề xin vào đoàn kịch, bao gồm cả Sadako.

    Arima ve vẩy tập lý lịch trên tay.

    - Tôi xin phép xem qua một chút được không?

    - Anh cứ tự nhiên.

    Trang lý lịch có dán hai ảnh. Một ảnh chân dung và một ảnh toàn thân. Yoshino cố nén cơn tò mò rút tờ lý lịch của Yamamura Sadako ra. Thế rồi bức ảnh đó như hút lấy hồn anh ta.

    - Lúc nãy ông có nói rằng Yamamura Sadako là một cô gái đáng sợ?

    Yoshino bối rối. Vì khuôn mặt Yamamura Sadako mà Yoshino hình dung ra trong câu chuyện của Arima khác xa so với khuôn mặt trong bức ảnh mà anh ta đang thấy.

    - Đáng sợ? Tại sao chứ? Tôi chưa từng thấy khuôn mặt nào đẹp như thế này.

    Bất giác Yoshino tự hỏi tại sao mình không dùng cách nói người phụ nữ đẹp mà lại nói khuôn mặt đẹp? Quả là một khuôn mặt gọn gàng đến hoàn hảo, nhưng lại thiếu vắng vẻ tròn trịa của một người con gái. Tuy vậy, trông cô ta thực sự nữ tính trong bức ảnh toàn thân vì đường bờ eo và đôi cổ chân thon thả. Mặc dù đẹp đến thế, nhưng với sự bào mòn của cái dòng chảy thời gian trải dài hai mươi lăm năm ấy, ấn tượng còn sót lại chỉ là một con bé ghê răng và đáng sợ. Bình thường, hẳn người ta sẽ nói: đó là một cô gái xinh đẹp tuyệt vời. Nhưng sự thật về một con người đáng sợ đã tác động mạnh vào tâm trí Yoshino, khiến anh ta chẳng còn dám để ý tới vẻ đẹp nổi bật của Sadako nữa.


    _Hết chương III / 8_

  9. #28
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts

    Chương III - Lốc xoáy

    9




    Thứ Tư, ngày 17 tháng Mười

    Đứng trên ngã tư cắt giữa đại lộ Omotesando và Aoyama, lại một lần nữa Yoshino rút ra cuốn sổ tay.

    Nhà trọ Sugiyama, 6-1 Minami-Aoyama
    . Đó là địa chỉ của Yamamura Sadako hai lăm năm trước. Yoshino đang phải nếm trải cảm giác tuyệt vọng vì ngôi nhà trọ không còn ở địa chỉ này nữa. Rẽ từ đại lộ vào, lô 6-1 nằm ngay cạnh Viện Bảo tàng Mỹ thuật Nezu. Tuy nhiên, đúng như những gì Yoshino lo lắng, một tòa chung cư tráng lệ xây bằng gạch đỏ đã mọc lên thế chỗ cho ngôi nhà trọ rẻ tiền kia.

    ... Một việc bất khả thi về căn bản. Làm sao có thể biết được tung tích của một nhân vật cách đây đã hai lăm năm.


    Manh mối còn lại là bốn diễn viên học nghề cùng gia nhập đoàn kịch một đợt với Yamamura Sadako. Trong số bảy người này, Yoshino chỉ tìm thấy được địa chỉ liên lạc của bốn người. Nếu bọn họ không có tin tức gì của Sadako thì coi như mọi sợi dây đều bị cắt đứt. Yoshino chỉ còn cách nghĩ như vậy. Anh ta nhìn đồng hồ, đã quá mười một giờ đêm. Lao vội tới một cửa hàng văn phòng phẩm, anh ta bắt đầu gửi fax cho ban tin tức ở Izu Oshima để thông báo cho Asakawa biết những điều vừa thu thập được.


    Trong lúc ấy thì Asakawa và Ryuji đang có mặt tại nhà Hayatsu, nơi đặt văn phòng của ban tin tức.

    - Này, Asakawa! Cậu phải bình tĩnh chứ. - Nhìn thấy Asakawa sốt ruột đi đi lại lại, Ryuji quát. - Rối lên thì làm được gì nào?

    Vận tốc gió cực đại, khí áp vùng gần tâm bão lên tới... millibar (Đơn vị đo khí áp. Hiện nay được thay thế bởi đơn vị có tên gọi hectopascal. 1 millibar bằng 1 hectopascal), gió thổi theo hướng đông bắc... nằm trong khu vực gió mạnh kèm theo mưa lớn... sóng dâng cao dữ dội. Thông tin về cơn bão số 12 đang phát trên đài như chọc tức Asakawa.

    Vị trí tâm bão nằm ở ngoài khơi cách mũi đất Omaezaki 150km về phía nam, mỗi giờ bão đi được 20km về hướng đông bắc với vận tốc gió đạt 40m/s. Cứ theo đà này, chắc chắn chiều tối nay bão sẽ tới ngoài khơi đảo Oshima. Theo suy đoán của Hayatsu, có lẽ phải hết ngày mai, tức là qua thứ Năm, các chuyến bay và thuyền ra đảo mới hoạt động trở lại.

    - Cậu có biết thứ Năm nghĩa là gì không?

    ... Mười giờ tối mai là hạn cuối của tao rồi. Cơn bão khốn kiếp kia, mau cuốn xéo đi! Mau yếu thành áp thấp nhiệt đới cho tao nhờ!


    - Khi nào thì thuyền và máy bay trên đảo mới hoạt động cơ chứ!

    Asakawa không còn biết phải trút cơn giận vào đâu.

    ... Đáng lẽ ta không nên đến đây. Ta không còn thời gian để hối hận. Mà ta biết phải hối hận từ đâu bây giờ? Đáng lẽ ta không nên xem cuộn băng ấy. Đáng lẽ ta đừng có bận tâm về Oishi Tomoko và Iwata Shuichi. Đáng lẽ ta không được bắt chiếc taxi hôm nào... Khốn nạn!


    - Tớ đã bảo cậu phải bình tĩnh cơ mà. Cậu không hiểu à? Cậu than vãn với bác Hayatsu thì ích gì? - Ryuji nắm lấy tay Asakawa, bằng một cử chỉ dịu dàng kỳ lạ. - Cậu nghe này, biết đâu câu thần chú phải được thực hiện trên hòn đảo này? Có khả năng đó lắm chứ. Tại sao bọn nhóc lại không thực hiện câu thần chú? Vì chúng không có tiền để tới đảo Oshima. Đấy, hoàn toàn có thể phải không nào. Cứ coi trận bão này là một cơn gió phước lành, rồi cậu sẽ bình tâm lại.

    - Nhưng đó là chuyện sau khi đã tìm ra câu thần chú!

    Asakawa hất tay Ryuji ra. Thấy hai người đàn ông đã trung tuổi mà cứ ầm ĩ chuyện bùa ngải, Hayatsu và vợ, bà Fumiko, đưa mắt nhìn nhau. Nhưng Asakawa lại ngỡ họ đang cười mình.

    - Có gì đáng cười ở đây nào?

    Ruiji giật mạnh tay Asakawa khi gã định sấn về phía hai ông bà già.

    - Cậu có thôi đi không. Cuống quít lên như thế cũng chẳng giải quyết được gì đâu.

    Chứng kiến nỗi bức xúc của Asakawa, một người tốt bụng như Hayatsu bắt đầu cảm thấy trách nhiệm của mình trước việc tàu thuyền và máy bay bị hoãn chuyến vì cơn bão. Mà không, phải nói rằng ông bỗng thấy cảm thông với một con người đang khổ sở vì sự ảnh hưởng của cơn bão ngay trước mắt mình. Ông không ngớt cầu nguyện cho công việc của Asakawa được thuận lợi. Tuy sắp có fax từ Tokyo gửi tới, nhưng ông vẫn muốn làm một điều gì đó hòng thay đổi tình hình vì cho rằng việc chờ đợi chỉ làm tăng thêm sự bức bối.

    - Công việc điều tra tiến triển được nhiều chưa hả các anh?

    Hayatsu ôn tồn hỏi như để trấn tĩnh Asakawa.

    - Vâng, cũng tạm được.

    - Có một người bạn hồi nhỏ của Yamamura Shizuko sống ở ngay gần đây, hay là tôi gọi tới để các anh hỏi chuyện? Ông cụ tên là Gen, trời mưa bão thế này không ra biển được chắc ông cụ cũng buồn. Được gặp các anh ông ấy sẽ vui lắm đấy.

    Hayatsu tính rằng nếu kiếm cho gã một ai đó để phỏng vấn có thể gã sẽ nguôi ngoai.

    - Ông lão đã gần bảy mươi tuổi rồi, chẳng biết có được việc cho các anh không nhưng như thế còn hơn phải ngồi chờ, đúng không nào.

    - Dạ...

    Không đợi câu trả lời của Asakawa, Hayatsu ngoái đầu vào bếp sai vợ: "Bà nó, mau gọi điện cho ông Gen bảo ông ấy đến đây ngay."

    Đúng như lời Hayatsu, Genji nói chuyện rất hào hứng. Ông lão vô cùng vui vẻ khi kể về Yamamura Shizuko. Genji hơn Shizuko ba tuổi, năm nay đã sang tuổi sáu mươi tám. Shizuko vừa là bạn nối khố vừa là người tình đầu tiên của ông. Việc nói chuyện với người khác đã làm các ký ức của ông mạch lạc hơn, hay chính trạng thái kích thích vì có người nghe đã khiến cho những kỷ niệm dễ dàng được khơi lại? Đối với Genji, kể về Shizuko cũng giống như kể về tuổi thanh xuân của mình vậy.

    Tuy bập bõm, nhưng câu chuyện Genji kể về Shizuko với những giọt lệ đôi khi ngấn lên trong mắt đã đem lại cho Asakawa và Ryuji một chút hiểu biết về con người này. Tuy nhiên, họ hiểu rằng không cần phải tin tất cả. Những kỷ niệm bao giờ cũng được đánh bóng, vả lại, hơn hết, chuyện xảy ra đã cách đây bốn mươi năm rồi. Biết đâu đấy, ông lão lại chả lẫn lộn với một người đàn bà khác? Nhưng mà không, không thể có chuyện ấy được. Đối với đàn ông, người phụ nữ của mối tình đầu là một cái gì đó đặc biệt, chưa chắc ông lão đã nhầm.

    Không thể cho rằng Genji là người khéo kể chuyện, lối kể chuyện của ông vòng vo và tối nghĩa. Quả thật là Asakawa đã bắt đầu thấy ngán. Thế rồi, có một câu nói của ông lão hốt nhiên khiến Asakawa và Ryuji chú ý. "Shizuko nhỏ bé của tôi bỗng nhiên đổi khác. Rõ ràng là tại nó. Bức tượng vị hành giả bằng đá nàng vớt từ dưới biển lên vào một đêm trăng tròn...". Theo lời kể của ông, một sức mạnh lạ lùng nào đó đã nhập vào Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako, và việc này có quan hệ mật thiết với biển trong đêm trăng tròn. Genji bảo, vào cái đêm mà chuyện đó xảy ra, ông đã ngồi chèo thuyền ngay bên cạnh Shizuko. Ấy là một đêm cuối hè năm 1946, khi Shizuko hai mươi mốt và Genji hai mươi bốn.
    "Đêm xuống, thế mà cái nóng của ban ngày chẳng dịu đi tẹo nào", Genji kể lại sự việc của bốn mươi tư năm trước như thể nó vừa mới xảy ra tối hôm qua.

    Trong một đêm oi ả như thế, dưới ánh trăng vằng vặc. Genji ngồi ngoài hiên, vừa phe phẩy quạt vừa ngắm nhìn mặt biển tĩnh lặng không một tiếng sóng đang phản chiếu bầu trời đêm. Thế rồi sự yên ắng bị phá tan khi Shizuko lao lên từ con dốc trước nhà và đứng khựng trước mặt Genji. "Gen ơi, em muốn đi câu, đẩy thuyền ra đi!", không một lời giải thích, cô kéo tay áo Genji. Genji có hỏi, cô chỉ nói: "Chẳng mấy khi có đêm trăng sáng thế này." Genji chỉ biết ngồi thần ra đó ngắm nhìn người con gái đẹp nhất đảo Oshima. "Thôi cái mặt ngốc nghếch ấy đi, mau lên nào...", Shizuko túm cổ áo Genji xềnh xệch lôi anh dậy. Genji bao giờ cũng chiều theo ý Shizuko. "Nhưng em định câu gì?", Genji hỏi lại song Shizuko chỉ đáp nhẹ tênh: "Tượng ông hành giả bằng đá" và vẫn không rời mắt khỏi biển.

    - Ông hành giả...?

    "Quân chiếm đóng" (chỉ quân Mỹ vào tiếp quản Nhật Bản sau khi nước này thua trận trong Thế chiến II) vừa ném tượng ông hành giả bằng đá xuống biển vào buổi trưa nay", Shizuko nhướn mày ấm ức nói.

    Trên Bãi cát Hành giả nằm ven bờ biển phía đông có một cái hang nhỏ mà người ta gọi là Động Hành giả. Trong động có một bức tượng đá của nhà tu hành En-no-Ozunu, người đã phiêu dạt tới đó vào năm 699 sau Công nguyên. Tương truyền, từ khi sinh ra, Ozunu đã tỏ ra vô cùng thông tuệ, sau khi tu luyện, ông học được chú thuật và tiền thuật, bằng những thuật này ông có thể dễ dàng sai khiến được quỷ thần. Tuy nhiên, khả năng tiên tri mà Ozunu để lộ ra đã khiến những kẻ cầm quyền hốt hoảng và rồi ông bị đày ra đảo Izu Oshima này như một tội nhân gây rối xã hội. Câu chuyện xảy ra cách đây đã gần 1300 năm. Ozunu ẩn mình trong một cái hang ven bờ biển và tiếp tục tu hành, ông truyền cho dân đảo nghề nông và nghề cá, ai ai cũng kính trọng ân đức ấy của ông. Tuy nhiên sau đó ông được tha bổng và trở về đất liền rồi lập nên giáo phái Mật tông Nhật Bản. Ông ở trên đảo Oshima khoảng ba năm và một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay kể rằng, trong thời gian đó có lần ông đi một chiếc guốc sắt và bay đến tận núi Phú Sỹ. Lòng ngưỡng mộ vô hạn của dân đảo dành cho ông khiến Động Hành giả trở thành chốn linh thiêng bậc nhất ở đây và lễ hội có tên Hội Hành giả năm nào cũng được tổ chức vào ngày 15 tháng Sáu trên đảo.

    Tuy nhiên, ngay sau khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương chấm dứt, quân chiếm đóng đã ném bức tượng đá En-no-Ozunu thờ trong Động Hành giả xuống biển để thể hiện chính sách của chúng đối với Thần giáo và Phật giáo. Hành động ấy không thể lọt qua mắt Shizuko. Với lòng tín ngưỡng sâu sắc dành cho En-no-Ozunu, Shizuko giấu mình giữa những tảng đá trên Bãi Mũi Giun, quan sát và khắc ghi thật kỹ vị trí của bức tượng đá mà tàu tuần tiễu của hải quân Mỹ đã ném xuống.

    Genji không tin vào tai mình khi nghe Shizuko nói đến việc đi câu tượng hành giả. Là một ngư phủ, anh hoàn toàn tin tưởng vào tay nghề của mình, nhưng anh chưa bao giờ đi câu tượng đá. Tuy nhiên, anh không thể cự tuyệt lời thỉnh cầu của người con gái mình đang thầm yêu trộm nhớ, anh đẩy thuyền ra biển như thể đấy là cơ hội để anh làm cô phải mắc nợ mình. Và hơn hết, không có gì tuyệt diệu bằng nếu hai người được ở giữa biển vào một đêm trăng đẹp thế này.
    Sau khi nhóm lửa để làm hiệu trên Bãi cát Hành giả và Bãi Mũi Giun, họ chèo thuyền ra khơi. Cả hai người đều thuộc lòng vùng biển này: đáy biển và độ sâu của nó... Thậm chí là cả những luồng cá qua lại nơi đây. Nhưng dù đêm nay trăng có tỏ đến mấy thì ánh sáng của nó cũng chẳng thể lọt tới đáy biển. Genji không biết Shizuko sẽ tìm ra bức tượng đá bằng cách nào. Genji vừa khua mái chèo vừa hỏi điều đó nhưng Shizuko không trả lời, cô chỉ nhìn về phía ánh lửa trên bãi cát để xác định vị trí thuyền. Có thể cô ước lượng bằng mắt thường khoảng cách giữa hai đốm lửa trên bờ từ ngoài khơi và áng chừng được vị trí của mình lúc này. Chèo ra được vài trăm mét thì Shizuko kêu lên: "Dừng lại đi anh!"

    Shizuko đi về cuối thuyền rồi ghé sát mặt xuống biển. Cô nhìn vào làn nước tối om và ra lệnh cho Genji: "Lùi lại đằng sau!" Genji biết Shizuko chuẩn bị làm gì, ngực anh đập thình thịch. Cô đứng lên và cởi bỏ bộ kimono chấm hoa của mình. Tiếng quần áo sột soạt trên da khiến trí tưởng tượng của Genji bị kích thích mạnh, anh cảm thấy ngộp thở. Có tiếng nhảy tùm xuống biển sau lưng và bọt nước bắn lên vai, Genji len lén quay đầu lại. Shizuko búi mái tóc đen dài của mình lên bằng chiếc khăn tay. Cô bơi đứng và nhô mặt trên nước, miệng ngậm đầu của tấm lưới mắt nhỏ. Sau đó, cô nhoi hẳn lên, hớp mạnh không khí hai lần rồi lặn sâu xuống đáy.

    Chắc là cô đã phải ngoi lên mặt biển vài lần để lấy hơi... Cuối cùng, khi Shizuko ngẩng đầu lên, trên miệng cô đã không còn ngậm đầu lưới nữa. "Em đã buộc chặt lưới vào bức tượng rồi, bây giờ mình kéo lên thôi", Shizuko run run nói.
    Đưa người về phía mũi thuyền, Genji bắt đầu kéo lưới. Không biết Shizuko đã lên thuyền từ bao giờ, cô khoác áo, đứng sát vào với Genji và phụ anh kéo bức tượng đá lên. Hai người đặt bức tượng đá ở giữa thuyền rồi trở về bờ, nhưng trong suốt thời gian đó Genji và Shizuko không nói với nhau lời nào. Có một bầu không khí nào đó đã chặn đứng mọi câu hỏi. Genji lấy làm lạ là tại sao Shizuko lại biết được vị trí của bức tượng giữa một vùng biển tối đen như thế. Ba ngày sau, Genji hỏi thì Shizuko trả lời rằng, bức tượng ông hành giả đã gọi cô từ dưới đáy biển. Shizuko bảo, cô thấy ánh mắt màu xanh lục của bức tượng đá có thể sai khiến được quỷ thần ấy sáng lấp lánh dưới đáy nước tối om...

    Từ đó về sau Shizuko thường hay kêu mệt. Trước đấy, Shizuko chưa bao giờ bị đau đầu. Nhưng những cảnh tượng mà cô chưa từng nhìn thấy càng ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong óc cô kèm theo những cơn đau nhức. Thế rồi, những cảnh tượng vụt qua ấy thể nào cũng trở thành hiện thực không lâu sau đó. Khi Genji gặng hỏi về điều này, Shizuko bảo, cô luôn cảm thấy mũi mình bị kích thích bởi mùi cam quít mỗi lần những hình ảnh về tương lai thoáng hiện lên trong não. Ngay trước khi người chị gái của Genji có chồng bên Odawara mất, cũng chính Shizuko đã báo trước về cái chết này. Song hình như cô không thể tự chủ được trong việc dự báo những sự kiện tương lai. Chỉ là một cảnh tượng nào đó vụt loé lên trong óc, không có dấu hiệu báo trước, không có gì chắc chắn rằng cô sẽ nhìn thấy cảnh tượng ấy. Vì vậy, Shizuko không bao giờ nhận lời đoán trước tương lai cho bất kỳ người nào.

    Một năm sau, mặc cho sự ngăn cản của Genji, Shizuko lên Tokyo rồi quen biết với Ikuma Heihachiro và mang bầu đứa con của anh ta. Cuối năm đó, Yamamura Shizuko trở về chốn cũ, sinh ra một mụn con gái. Đứa bé ấy chính là Sadako.
    Không thể biết được khi nào thì câu chuyện của ông lão Genji sẽ kết thúc. Xem cách nói ấy thì rõ là ông lão đang kết tội Ikuma Heihachiro về việc Yamamura Shizuko trầm mình xuống miệng núi lửa Mihara mười năm sau đó. Cố nhiên, đấy là tình cảm tất yếu đối với một tình địch, nhưng không dễ dàng gì khi phải nghe những câu chuyện pha lẫn hằn thù. Tuy vậy, gã cũng thu hoạch được một điều, ấy là Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako, cũng có khả năng tiên tri và kẻ cho bà ta khả năng ấy rất có thể là bức tượng đá En-no-Ozunu.

  10. #29
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts
    Đúng lúc đó thì chiếc máy fax bắt đầu hoạt động. Trên trang fax được in ra là bức chân dung phóng đại của Yamamura Sadako mà Yoshino kiếm được ở đoàn kịch Hisho.

    Asakawa bỗng có cảm giác xúc động lạ thường. Vì đây là lần đầu tiên gã được chiêm ngưỡng dung nhan của Yamamura Sadako. Mặc dù chỉ kéo dài ít phút, nhưng những cảm giác của gã và cô ta đã hoà vào làm một, gã đã nhìn thấy những cảnh tượng trong cuốn băng với cùng một ánh mắt với cô ta... Tựa như dung mạo của một người con gái đáng yêu tuy không hề biết mặt nhưng đã làm tình với gã và cùng đạt tới cực khoái trong bóng tối đang dần hiện ra dưới ánh nắng nhạt... Thật lạ là gã không hề cảm thấy ghê sợ. Hẳn nhiên rồi, vì bức ảnh gửi bằng fax tuy có hơi mờ nhưng vẫn chuyển tải được đầy đủ những đường nét và vẻ quyến rũ trên khuôn mặt xinh xắn của Yamamura Sadako.

    - Trông cũng khá đấy chứ! - Ryuji nói.

    Asakawa bất giác nghĩ đến Takano Mai. Nếu chỉ đơn thuần so sánh hai khuôn mặt sẽ nhận thấy Yamamura Sadako đẹp hơn Takano Mai nhiều lần. Tuy nhiên, trong khi ở Takano Mai toả ra một thứ mùi đàn bà, thậm chí là ngửi thấy được, thì Yamamura Sadako lại bị gọi là đáng sợ. Nhưng bức ảnh không hề cho thấy sự đáng sợ nào như thế. Chắc chắn là sức mạnh không người thường nào có được của Yamamura Sadako đã gây ra cảm giác đó ở những người xung quanh.

    Tờ fax thứ hai là thông tin tóm tắt về Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako. Đó vừa vặn là câu chuyện tiếp theo những gì ông lão Genji vừa kể.


    Năm 1947, bỏ lại Sashikichi để lên Tokyo, Shizuko bị ngã quỵ bởi một cơn đau đầu đột ngột và được đưa đến bệnh viện, ở đó người ta giới thiệu cô với Ikuma Heihachiro, phó giáo sư Khoa Thần kinh học Đại học T. Ikuma Heihachiro đang cố gắng đi tìm một lời giải khoa học cho hiện tượng thôi miên nên khi phát hiện ra khả năng thấu thị ở Shizuko, anh ta đã tỏ ra vô cùng hứng thú. Sự kiện này đã làm thay đổi cả đề tài nghiên cứu của Ikuma. Kể từ đấy, Ikuma Heihachiro lao đầu vào những khảo cứu liên quan đến siêu năng lực mà Shizuko chính là đối tượng thí nghiệm. Tuy nhiên, hai người đã vượt qua mối quan hệ đơn thuần và, mặc dù đã có vợ con, Ikuma vẫn đem lòng yêu Shizuko. Cuối năm ấy, mang trong mình đứa con của Ikuma, Shizuko trở về Sashikichi để trốn chạy ánh mắt người đời và sinh ra Yamamura Sadako. Shizuko gửi lại Sadako ở Sashikichi rồi lập tức lên Tokyo, nhưng ba năm sau đó cô lại trở về để đem đứa bé đi. Nghe đâu, suốt từ đó cho đến khi nhảy xuống miệng núi lửa Mihara tự vẫn, Shizuko luôn để con gái bên mình mà không rời nửa bước.

    Thế rồi vào những năm năm mươi, sự kết đôi giữa Ikuma Heihachiro và Yamamura Sadako đã gây xôn xao lớn trên các tờ báo và tạp chí. Lý do là vì những căn cứ khoa học về siêu năng lực của họ bỗng nhiên trở thành tiêu điểm của xã hội. Ban đầu, có lẽ do bị huyễn hoặc bởi vị trí phó giáo sư đại học T. của Ikuma Heihachiro mà hầu hết dư luận đều tin vào năng lực siêu nhiên của Shizuko. Lựa chiều gió, giới truyền thông cũng tuôn ra những lời lẽ đầy thiện chí. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều những ý kiến phê phán, coi đó là trò bịp bợm, và chỉ bằng một lời phát biểu nhận xét rằng "điều này rất đáng ngờ" của một nhóm học giả uy tín hơn thế là phần lớn các báo bắt đầu ngả sang hướng đầy bất lợi cho Ikuma Heihachiro và Yamamura Shizuko.

    Những thứ mà Shizuko thực hiện được chủ yếu là khả năng ngoại cảm, bao gồm chụp ảnh bằng ý nghĩ, thấu thị, tiên tri; trên thực tế cô chưa bao giờ bộc lộ khả năng viễn khiển, tức là phép di chuyển các vật mà không cần chạm vào chúng. Một số tờ tạp chí thì khẳng định, Shizuko có thể in được những hình vẽ theo đúng yêu cầu lên tấm phim đã niêm phong cẩn mật chỉ bằng cách áp nó lên trán, và cũng như vậy, cô có thể đoán bách phát bách trúng những thứ nằm trong một chiếc phong bì dán kín. Trong khi đó, một số tờ tạp chí khác lại cho rằng, Shizuko chẳng qua chỉ là một kẻ lừa đảo, những nhà ảo thuật dày công luyện tập một chút cũng có thể làm được điều tương tự dễ như trở bàn tay. Cứ như thế, dư luận dần tỏ ra lạnh nhạt với Shizuko và Ikuma Heihachiro.

    Giữa khi ấy, bất hạnh bỗng đổ ập lên đầu Shizuko. Năm 1954, Shizuko sinh đứa bé thứ hai, đó là một thằng con trai, nhưng sau khi chào đời bốn tháng nó bị bệnh chết. Lúc ấy Sadako lên bảy và nghe đâu cô đã dành cho cậu em mới đẻ của mình một tình yêu đặt biệt.

    Một năm sau, năm 1955, Ikuma Heihachiro quyết định khiêu chiến với báo chí bằng cách biểu diễn khả năng đặc biệt của Shizuko trước công chúng. Ban đầu Shizuko không bằng lòng. Cô sợ thất bại vì ở giữa đám đông cô không thể tập trung tinh thần theo ý muốn. Nhưng Ikuma không nhượng bộ. Anh ta không thể chịu đựng được chuyện bị báo giới gọi là kẻ lừa đảo mãi và cho rằng cách duy nhất để khiến thiên hạ sáng mắt ra là cho họ thấy những bằng chứng rõ ràng.

    Ngày hôm đó, mặc dù không thoải mái, Shizuko vẫn bước lên bục thí nghiệm giữa sự chứng kiến của gần một trăm phóng viên và học giả. Một phần cũng bởi sự suy sụp về tinh thần kể từ sau khi mất đi đứa con trai, Shizuko không ở vào trạng thái sung mãn nhất. Phương pháp thí nghiệm dự kiến rất đơn giản. Cô chỉ phải đoán số chấm của hai con xúc xắc trong một vật đựng bằng chì. Nhưng Shizuko đọc thấy trong ý nghĩ của toàn bộ một trăm con người đang vây quanh mình rằng, họ chờ đợi sự thất bại của cô. Shizuko run rẩy, cô quỳ sụp xuống sàn và hét lên đau đớn: "Thôi đi!" Shizuko thanh minh: "Con người, ai cũng có một năng lượng ý nghĩ nhất định. Tôi hơn người chỉ ở năng lượng ấy. Nhưng giữa một trăm ý nghĩ muốn tôi thất bại, dòng năng lượng ấy của tôi sẽ bị cản trở và tôi không thể phát huy được khả năng của mình." Ikuma Heihachiro nói tiếp: "Không. Không chỉ có một trăm người mà toàn thể dân Nhật đang muốn giày xéo lên thành quả nghiên cứu của tôi. Dư luận sẽ ngả theo những gì báo chí đồn thổi, và khi ấy, báo chí các người sẽ chẳng bao giờ nói ra những gì khác với điều mà dân chúng đang mong đợi. Các người thật đáng xấu hổ!" Rốt cuộc, màn thí nghiệm công khai khả năng thấu thị đã khép lại bằng những lời mạt sát báo giới của Ikuma Heihachiro.

    Giới truyền thông nhìn nhận những lời thịnh nộ của Ikuma Heihachiro như một cách mà anh ta muốn dựng lên để đổ tội cho kẻ thù của mình là báo chí về thất bại của cuộc thí nghiệm. Và ngày hôm sau, họ đồng loạt đăng những dòng sau trên tất cả các mặt báo: "Đúng là đồ bịp bợm!", "Kẻ giả mạo đã bị lột mặt nạ!", "Phó giáo sư đại học T., một tên lừa đảo!", "Chấm hết cho một cuộc tranh cãi kéo dài năm năm!", "Thắng lợi của khoa học hiện đại!". Không có bất cứ bài báo nào ủng hộ Shizuko và Ikuma Heihachiro.

    Cuối năm ấy, Ikuma Heihachiro ly dị vợ, thôi việc ở đại học T. Shizuko ngày càng bị chứng hoang tưởng hành hạ. Ít lâu sau, với quyết tâm có được siêu năng lực, Ikuma Heihachiro giam mình trên núi và tu luyện dưới thác nước nhưng việc tập luyện quá sức đã khiến anh ta mắc bệnh lao phổi và phải vào trại điều dưỡng Hakone. Trạng thái tinh thần của Shizuko mỗi lúc một thêm tồi tệ. Sadako, khi ấy lên tám, đã thuyết phục mẹ trở về Sashikichi để trốn chạy sự nhòm ngó của báo chí và những lời đàm tiếu của thế gian, nhưng chỉ trong một phút sao nhãng, mẹ cô đã nhảy xuống miệng núi lửa Mihara.

    Asakawa và Ryuji đọc xong hai tờ fax cùng một lúc.

    - Oán niệm đây mà. – Ryuji lẩm bẩm.

    - Oán niệm?

    - Theo cậu thì Sadako nghĩ gì khi mẹ cô ta nhảy xuống núi lửa Mihara?

    - Oán giận giới truyền thông?

    - Không chỉ giới truyền thông. Mà oán giận tất cả dư luận, những kẻ ban đầu thì tâng bốc nhưng khi tình thế thay đổi lại quay sang chế nhạo và đẩy gia đình cô ta đến cảnh tan vỡ. Yamamura Sadako ở bên bố mẹ từ lúc lên ba đến khi lên năm, đúng không nào? Thế thì chắc chắn cô ta hiểu rất rõ cái sự tráo trở ấy của người đời.

    - Nhưng không có nghĩa là như thế thì cần phải trả thù tất cả.

    Asakawa bắt đầu biện bạch, tất nhiên rồi, vì gã ý thức được rằng gã chính là một bộ phận của cái giới truyền thông kia. Trong bụng mình, gã đang biện bạch, mà không, gã đang van xin. Cô biết đấy, tôi cũng lên án bản chất của giới truyền thông giống như cô vậy.

    - Cậu lảm nhảm cái gì thế?

    - Hả?

    Asakawa không nhận ra là mình đang lẩm bẩm thành tiếng như niệm Phật.

    - Cậu thấy chưa, chúng ta đã giải mã được một phần những hình ảnh đó rồi. Mihara là nơi mẹ Sadako trẫm mình và là ngọn núi lửa mà cô ta tiên đoán sự phun trào của nó, vì vậy ý niệm của cô ta đối với ngọn núi này rất mạnh. Tiếp theo là cảnh chữ "Yama" hiện lên mờ tỏ, chắc hẳn đó là con chữ đầu tiên Sadako thực hiện thành công khả năng chụp ảnh bằng ý nghĩ hồi còn nhỏ.

    - Hồi còn nhỏ?

    Asakawa vẫn chưa hiểu tại sao lại nhất thiết phải là bức ảnh được chụp bằng ý nghĩ hồi còn nhỏ?

    - À, là hồi cô ta lên bốn hoặc lên năm. Và sau đó là cảnh hai quân xúc xắc. Sadako hẳn là đã có mặt trong cuộc trình diễn công khai đó và lo lắng quan sát khi mẹ cô ta đoán mặt quân xúc xắc.

    - Khoan đã! Yamamura Sadako nhìn thấy rõ những quân xúc xắc lăn trong chiếc bát bằng chì đó!

    Cả Asakawa và Ryuji đều nhìn thấy cảnh tượng ấy bằng chính mắt mình. Không thể nào nhầm được.

    - Thế thì sao?

    - Trong khi đó thì mẹ cô ta, Shizuko, lại không thể thấu thị được.

    - Con làm được điều mà mẹ không làm được thì có gì là lạ? Cậu nghe này, tuy lúc ấy Sadako mới lên bảy tuổi, nhưng cô ta có một khả năng gấp bội mẹ mình. Năng lượng ý nghĩ của một trăm người cộng lại cũng không phải là đối thủ của cô ta. Cậu thử nghĩ xem. Cô ta có thể đưa được cả hình ảnh vào trong bóng đèn hình cơ mà. Ti vi phát ra hình ảnh bằng một phương pháp hoàn toàn khác so với nguyên lý cảm quan của phim. Nó tạo ra hình ảnh bằng cách quét lên màn hình 525 dòng tia điện tử. Sadako làm được điều đó. Cô ta có một năng lượng khủng khiếp.

    Asakawa vẫn không làm sao hiểu nổi.

    - Nếu cô ta có một khả năng ghê gớm đến vậy thì tại sao lại không in lên tấm phim mà tiến sỹ Miura gửi đến một hình ảnh phức tạp hơn?

    - Ngốc ơi là ngốc. Cậu nên nhớ rằng mẹ cô ta, Shizuko, đã phải chịu đựng một cuộc đời bất hạnh chỉ vì bị người khác biết được khả năng đặc biệt của mình. Liệu bà ta có muốn để con gái giẫm lên vết xe đổ đó không? Chắc chắn là bà ta đã bắt con gái phải giấu đi khả năng của mình và sống như một người bình thường. Vì thế, Sadako đã điều chỉnh lại cường độ năng lượng để tạo ra một bức hình chẳng có gì đặc biệt.

    Hoá ra Yamamura ở lại một mình trong phòng tập sau khi các diễn viên khác đã về hết và ngồi trước chiếc máy thu hình, thứ rất có giá vào thời ấy, là nhằm kiểm tra khả năng của mình. Tất nhiên, cô ta đã rất cảnh giác để người khác không biết được điều này.

    - Thế còn bà lão xuất hiện ở cảnh kế tiếp là ai? - Asakawa hỏi.

    - Chịu thôi. Có thể bà già ấy đã xuất hiện trong một giấc mơ của Sadako và thì thầm với cô ta điều gì đó giống như một lời tiên tri. Bà ta dùng một thứ thổ ngữ cổ xưa. Chắc cậu cũng để ý, người dân ở đây hầu hết đều nói tiếng phổ thông. Bà ấy đã khá già lão rồi. Có khi sống vào thời Kamakura cũng nên. Mà chẳng biết chừng, bà ta còn có quan hệ gì đó với En-no-Ozunu ấy chứ.

    ....Sang năm, cháu sẽ sinh con.

    - Lời tiên đoán ấy có đúng không nhỉ?

    - À, cái đó hả. Tiếp theo là cảnh thằng bé sơ sinh đúng không nào? Ban đầu tớ cứ tưởng nó là con của Sadako, nhưng khi xem bản fax thì có vẻ như tớ nhầm.

    - Cậu cho rằng đó là đứa em trai bị chết sau khi sinh bốn tháng của Sadako?

    - Tớ nghĩ là vậy.

    - Thế còn lời tiên tri của bà già? Rõ ràng là bà ta đang nói với Sadako. Hay là Sadako có con?

    - Không biết. Nếu tin lời bà ta thì cũng có thể là vậy.

    - Con ai nhỉ?

    - Ai mà biết được? Này, cậu đừng nghĩ rằng cái gì tớ cũng biết. Tớ chỉ nói những điều tớ suy đoán thôi.

    Nếu Yamamura Sadako có con thì đứa con đó là con ai và hiện đang làm gì?

    Ryuji đột nhiên đứng bật dậy khiến đầu gối đập mạnh vào gầm bàn.

    - Tớ thấy đói quá, chắc là sang ngày rồi. Aakawa, đi ăn thôi.

    Nói rồi Ryuji vừa lấy tay xoa đầu gối vừa nhanh nhẹn đi về phía cửa. Asakawa không đói, nhưng gã quyết định đi cùng vì có chuyện cần bàn. Ryuji có yêu cầu gã điều tra một việc, nhưng vì không biết bắt đầu từ đâu nên gã vẫn cứ gác lại đấy. Bây giờ gã mới vừa nhớ ra. Đó là cảnh cuối của cuốn băng. Rất có thể đó là Ikuma Heihachiro, bố của Sadako. Nhưng lại có quá nhiều sự thù địch trong ánh mắt của Sadako đối với con người này. Lúc nhìn thấy khuôn mặt ấy trên màn hình, Asakawa cảm thấy một nỗi đau ê ẩm và nặng nề ở sâu trong cơ thể mình, kèm theo một cảm giác ghê tởm dữ dội. Đó là người đàn ông có khuôn mặt gọn gàng và ánh mắt không đến nỗi độc ác, nhưng thật lạ là tại sao gã lại có ác cảm với anh ta. Rõ ràng đấy không phải là ánh mắt mà Sadako dành cho người ruột thịt. Trong những thông tin Yoshino điều tra được cũng không thấy có chỗ nào chứng tỏ rằng Sadako chống đối cha mình. Ngược lại, gã có cảm giác Sadako là một người con hiếu thảo. Nhưng có vẻ như việc tìm ra tung tích của người đàn ông đó là một nhiệm vụ bất khả thi. Khoảng thời gian ngót ngét ba mươi năm hẳn phải làm cho một khuôn mặt biến đổi đi nhiều. Tuy vậy, tính đến mọi khả năng, có khi gã vẫn nên nhờ Yoshino kiếm lấy một tấm ảnh chân dung của Ikuma Heihachiro, và cần phải biết xem quan điểm của Ryuji ra sao về chi tiết này. Nghĩ như thế, Asakawa bước ra ngoài và đuổi theo sau Ryuji.

  11. #30
    Cua Cua... bò bò...
    sarujun's Avatar


    Thành Viên Thứ: 74964
    Giới tính
    Nữ
    Đến Từ: Châu Á
    Tổng số bài viết: 354
    Thanks
    1,183
    Thanked 498 Times in 201 Posts
    Tiếng gió thổi ù ù. Ô hoàn toàn không có tác dụng. Asakawa và Ryuji khom người chạy vội về phía quán ăn nhẹ ngay trước cảng Motomachi.

    - Uống bia chứ?

    Không đợi Asakawa trả lời, Ryuji gọi với về phía người phục vụ: "Cho hai chai bia!"

    - Ryuji, mình muốn nói tiếp câu chuyện lúc nãy. Theo cậu, tóm lại thì những hình ảnh trong cuốn băng đó là gì?

    - Chịu.

    Chẳng buồn ngẩng mặt lên, Ryuji đáp gọn lỏn vì còn mải chén món cơm suất với thịt nướng. Asakawa lấy dĩa xiên một miếng xúc xích và đưa cốc bia lên miệng. Qua ô cửa sổ, gã nhìn thấy cầu cảng. Không một mống người trước phòng bán vé phà Tokai Kisen. Nơi nào cũng vắng lạnh. Những du khách bị kẹt lại trên đảo chắc hẳn đang lo lắng nhìn trời và biển trong đêm tối từ những ô cửa sổ quán trọ.

    Ryuji ngẩng mặt lên.

    - Lúc sắp chết, trong đầu người ta hiện lên những gì cậu có biết không?

    Asakawa đưa ánh mắt đang hướng ra ngoài cửa sổ về phía đối diện với mình.

    - Những hình ảnh để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí sẽ vụt tái hiện như một đoạn phim flash-back...

    Asakawa có lần đã đọc được điều này trong cuốn sách của một nhà văn. Trong lúc đánh xe trên một cung đường núi, tác giả bỗng nhiên mất lái khiến cho cả người và xe đều lăn xuống một vực sâu. Vào khoảnh khắc chiếc xe lao ra khỏi đường và văng lên không trung, nhà văn nọ tin rằng mình sẽ chết, và vào cái khoảnh khắc nghĩ như thế, hàng loạt những hình ảnh về cuộc đời ông ta từ quá khứ rào rào lướt qua trước mắt, rõ ràng tới từng chi tiết. Cuối cùng, giống như một kỳ tích, tác giả thoát chết nhưng cái kinh nghiệm mà ông ta trải qua vào giây phút ấy thì vẫn còn nguyên trong trí nhớ.

    - Không lẽ cậu định ám chỉ điều đó? - Asakawa hỏi.

    Ryuji vẫy người phục vụ và gọi thêm một chai bia nữa.

    - Tớ chỉ liên tưởng thế thôi. Vì các cảnh phim trong cuốn băng là những thời khắc mà dòng năng lượng tư duy và ý nghĩ của Sadako hoạt động mạnh nhất. Có thể coi đó là những hình ảnh sâu đậm với cô ta lắm chứ.

    - Hiểu rồi, mà này, như thế có nghĩa là...

    - Phải, khả năng ấy là rất lớn.

    ...Yamamura Sadako không còn tồn tại trên cõi đời này nữa?

    Và cô ta dùng cách đó để lưu lại trên thế giới này những hình ảnh lẫn lộn lướt qua trong đầu mình vào phút lâm chung?

    - Tại sao cô ta lại chết? Rồi cả mối quan hệ giữa người đàn ông ở cuối đoạn băng với Sadako nữa chứ?

    - Cậu đừng có cái gì cũng hỏi tớ. Tớ làm sao mà biết được tất cả mọi chuyện.

    Asakawa tỏ ra chưa chịu.

    - Này, động não một chút đi ông bạn! Cậu quá dựa dẫm vào người khác rồi đấy. Cậu sẽ ra sao nếu tớ có chuyện và cậu sẽ phải một mình đi tìm câu thần chú? - Ryuji nói tiếp.

    Không đời nào lại có chuyện ấy. Có chăng chỉ là trường hợp Asakawa chết đi và Ryuji phải tự tìm câu thần chú một mình, chứ ngược lại thì không. Riêng về việc này thì Asakawa tin chắc.

    - Lúc nãy có một anh tên là Yoshino gọi điện từ Tokyo đến. Anh ta bảo sẽ gọi lại sau mười phút nữa vì đang ở ngoài. - Hayatsu thông báo khi họ trở về.

    Asakawa ngồi chầu chực trước máy điện thoại và cầu mong cho đó là một tin tốt lành. Chuông reo. Yoshino gọi.
    - Ban nãy tớ gọi cho cậu mấy lần... - Giọng Yoshino hơi có vẻ trách móc.

    - Xin lỗi, em vừa ra ngoài đi ăn.

    - Thế, fax đã đến chưa?

    Yoshino khẽ đổi giọng. Vẻ trách cứ biến mất, thay vào đó là sự dịu dàng. Asakawa chợt có linh cảm xấu.

    - Vâng, thông tin rất đáng giá. - Nói rồi Asakawa chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. - Sau đấy anh có tìm thấy gì nữa không? Về tung tích của Yamamura Sadako ấy?

    Asakawa dồn dập hỏi. Nhưng có một khoảng lặng trước câu trả lời của Yoshino.

    - Không xong. Mất dấu rồi.

    Nghe thấy vậy, mặt Asakawa méo xệch như sắp khóc. Ryuji thì thích chí quan sát sự biến đổi nhanh chóng từ hy vọng sang tuyệt vọng trên khuôn mặt của một con người. Y ngồi phịch xuống chiếu rồi duỗi thẳng hai chân ra phía khoảng sân trước nhà.

    - Anh nói mất dấu nghĩa là sao? - Giọng Asakawa lạc đi.

    - Trong đám diễn viên học nghề vào đoàn kịch cùng đợt với Yamamura Sadako có bốn người là có thể liên hệ được. Tớ gọi cho cả bốn nhưng chẳng ai biết được điều gì. Bọn họ, gọi thế thôi chứ cũng xấp xỉ năm mươi cả rồi, đều nhất loạt nói rằng họ không hề trông thấy Yamamura Sadako kể từ khi giám đốc đoàn kịch Shigemori chết. Ngoài ra, không có thêm thông tin nào nữa về Yamamura Sadako.

    - Không thể, không thể kết thúc như thế này chứ.

    - Nói vậy, cậu đã có cách gì chưa...

    - Em sẽ chết vào mười giờ tối mai. Không chỉ có em, mà vợ và con gái em cũng sẽ chung số phận vào mười một giờ sáng ngày Chủ nhật.

    Ryuji nói vóng lại từ đằng sau.

    - Cậu quên mất tớ rồi à, rõ chán.

    Asakawa tiếp tục, không thèm để ý tới câu nói chen ngang của Ryuji.

    - Chưa hết cách mà anh. Hẳn là còn có ai đó ngoài mấy tay diễn viên học nghề kia biết được tin tức của Yamamura Sadako chứ. Anh Yoshino, tính mạng của cả gia đình em đang bị đe doạ.

    - Đã chắc gì.

    - Ý anh là sao?

    - Biết đâu sau hạn chót cậu vẫn sống.

    - Anh chưa tin phải không?

    Asakawa nghĩ tới cảnh tượng mọi thứ trước mắt mình đều trở nên tối mịt.

    - Cậu không thể bảo tớ phải tin một trăm phần trăm câu chuyện ấy được.

    - Nghe em đi anh Yoshino. - Nói cách nào để thuyết phục được con người này bây giờ? - Tất nhiên, ngay cả em cũng không tin đến một nửa câu chuyện ấy. Câu thần chú là cái gì cơ chứ, thật là ngu ngốc. Nhưng nghe em này Yoshino, giả sử với xác suất viên đạn bay ra là 1/6, anh có dám kề súng vào thái dương mình và bóp cò không? Anh có dám lôi cả gia đình vào một trò ru-lét Nga nguy hiểm đến thế không? Anh không thể đúng không nào? Và tất nhiên là anh sẽ hạ súng xuống rồi quẳng nó đi càng xa càng tốt, như xuống biển chẳng hạn, phải không?

    Asakawa nói liền một hơi. Còn Ryuji thì kêu tướng lên ở đằng sau: "Chúng ta ngu quá, ngu quá."

    - Cậu im đi! - Asakawa lấy tay bịt ống nghe rồi quay lại nạt Ryuji.

    - Có chuyện gì thế? - Yoshino hạ thấp giọng.

    - Không, không có gì. Anh Yoshino, giúp em đi. Em chỉ còn có thể trông cậy vào anh...

    Ryuji kéo cánh tay Asakawa giữa lúc gã đang nói. Điên tiết, Asakawa hằm hằm quay lại. Nhưng thứ mà gã trông thấy là khuôn mặt nghiêm túc đến bất ngờ của Ryuji.

    - Bọn mình ngốc quá. Cả cậu và tớ đều mụ mẫm hết rồi. - Ryuji nói nhỏ.

    - Anh chờ em một chút. - Asakawa hạ ống nghe xuống. - Có chuyện gì thế?

    - Việc đơn giản thế mà cớ sao chúng ta không nghĩ ra? Cần gì phải lần theo Yamamura Sadako từ quá khứ? Chúng ta có thể làm ngược lại cơ mà. Tớ hỏi cậu: Tại sao lại là ngôi biệt thự B-4? Tại sao lại là Villa Log Cabin? Tại sao lại là Pacific Land Nam Hakone?

    Asakawa ngớ người, rồi gã ngộ ra một điều gì đấy. Sau đó, gã trở lại bình tĩnh và đưa ống nghe lên.

    - Anh Yoshino.

    Yoshino vẫn đang đợi.

    - Anh Yoshino, anh gác hướng đoàn kịch lại hộ em. Em có một việc khẩn cấp hơn muốn nhờ anh điều tra. Hình như em đã nói với anh về Pacific Land Nam Hakone rồi thì phải...

    - À, tớ có nghe. Câu lạc bộ resort ấy hả?

    - Vâng. Theo em nhớ thì mười năm trước người ta xây dựng ở đó một sân golf và gần đây các cơ sở vật chất khác mới được hoàn thiện như là những dịch vụ đi kèm... Em muốn nhờ anh điều tra xem cái gì đã tồn tại ở đó trước khi Pacific Land được xây dựng.

    Có tiếng cây bút của Yoshino chạy trên giấy.

    - Có cao nguyên chứ còn cái gì nữa?

    - Có thể là như thế mà cũng có thể không.

    Ryuji lại kéo ống tay áo Asakawa. "Cả bản vẽ nữa. Cậu hiểu chứ? Nếu còn có các kiến trúc khác trước khi Pacific Land được xây dựng, cậu nhớ nhờ anh ta xin cho cái bản vẽ ấy."

    Asakawa nói lại với Yoshino y như vậy rồi bỏ máy. Gã vận toàn bộ sức lực vào một ý nghĩ, nhất định Yoshino phải tìm ra manh mối. Phải rồi, vì ai cũng có một năng lượng ý nghĩ.


    _Hết Chương III / 9_

Trang 3/4 đầuđầu 1 2 3 4 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 53
    Bài mới gởi: 10-03-2014, 02:57 PM
  2. Đọc truyện kinh dị theo cách của Suzuki
    By Sayuri_chan in forum Con Người Nhật Bản
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 05-07-2010, 01:37 PM
  3. The Ring & The Ring Two (2005)
    By Hei in forum Âm Nhạc - Phim Ảnh
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 08-02-2010, 09:37 PM
  4. [Giới thiệu] Ring-Suzuki Koji
    By ZenG in forum Văn Học
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 04-03-2008, 12:44 AM

Tags for this Thread

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •