>
Trang 1/3 1 2 3 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 10 trên 30

Ðề tài: [Truyện Dài] Rừng Nauy - Murakami Haruki (full)

  1. #1
    Shokunin


    Thành Viên Thứ: 35767
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 47
    Thanks
    1
    Thanked 4 Times in 2 Posts

    [Truyện Dài] Rừng Nauy - Murakami Haruki (full)

    Mới coi phim Rừng Nauy thấy hay quá, vội kiếm tuyện này post lên cho mọi người tham khảo


    Rừng Nauy



    Tác giả :Haruki Murakami
    Dịch giả: Trinh Lữ


    Chương 1

    Lúc ấy tôi đã ba mươi bảy tuổi, đang ngồi thắt chặt dây an toàn khi chiếc 747 kềnh càng nhào xuống qua tầng mây dày dặc về phía sân bay Hamburg. Những trận mưa tháng Mười một lạnh lẽo thấm đâm mặt đất, khiến mọi vật ảm đạm như trong một bức tranh phong cảnh Hà Lan ngày xưa: đám nhân viên mặt đất trùm áo mưa, mẳnh cờ u rũ trên nóc một toà nhà vuông vức trong sân bay, một tấm biển quảng cáo xe BMW. Chao ôi, lại nước Đức đây rồi.

    Khi máy bay đang lăn bánh trên mặt đất, tiếng nhạc nhè nhẹ bắt đầu trôi ra từ hệ thống loa trên trần: một bản hoà tấu không lời ca khúc "Rừng Na-uy" của nhóm Beatles. Giai điệu ấy bao giờ cũng khiến toàn thân tôi run rẩy, nhưng lần này, nó làm tôi choáng váng hơn bao giờ hết.

    Tôi cúi xuống, hai tay ôm mặt, cố giữ cho đầu mình khỏi nứt ra. Chẳng mấy chốc một chiêu đãi viên người Đức đến hỏi bằng tiếng Anh xem tôi có sao không.

    "Không sao," tôi nói, "tôi chỉ hơi chóng mặt."

    "Ông chắc vậy không?"

    "Vâng, chỉ vậy thôi. Cám ơn cô."

    Cô ta mỉm cười bỏ đi, và âm nhạc chuyển sang một điệu hát của Billy Joel. Tôi ngồi thẳng lên và nhìn qua cửa sổ về phía những đám mây đen đang lơ lửng trên Biển Bắc, nghĩ đến những mất mát trong cuộc đời mình: những thời đã qua không bao giờ trở lại, những bạn bè đã chết hoặc biệt vô âm tín, những cảm xúc mãi mãi không còn nữa.

    Máy bay đã đến cửa lên xuống. Người ta bắt đầu tháo dây an toàn và kéo hành lý xuống từ khoang trên ghế ngồi, trong khi đó tôi chỉ thấy mình ngoài đồng cỏ. Tôi ngửi thấy cả mùi cỏ, cảm thấy gió mơn man trên mặt, nghe thấy tiếng chim kêu. Mùa thu 1969, lúc ấy tôi sắp hai mươi.

    Cô chiêu đãi viên trở lại. Lần này thì cô ngồi xuống cạnh tôi và hỏi xem tôi có ổn cả không.

    "Tôi không sao, cám ơn cô, "tôi nói và mỉm cười. "Chỉ thấy hơi bâng khuâng vậy thôi."

    "Tôi hiểu chuyện đó," cô nói. "Tôi cũng thế, lâu lâu lại bị một lần."

    Cô đứng lên và mỉm cười với tôi, vẻ thật đáng yêu.

    "Vậy nhé, xin chúc ông một chuyến đi tốt đẹp. Auf Wiedersehen"

    "Auf Wiederseben." (Tạm biệt - tiếng Đức)

    Mười tám năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn có thể nhớ lại từng chi tiết của ngày hôm đó trên đồng cỏ. Được tắm rửa sạch sẽ bởi những ngày mưa nhẹ nhàng mùa hạ, những rặng núi xanh thăm như rõ ràng hăn lên. Làn gió nhẹ tháng Mười thổi đung đưa những ngọn cỏ trắng cao lút đầu người. Một dải mây dài lửng lơ vắt ngang vòm trời xanh im phăng phắc. Chỉ nhìn bầu trời thăm thăm ấy thôi cũng đã thấy nao núng cả cõi lòng. Một cơn gió ào qua đồng cỏ, qua mái tóc nàng, rồi lẻn vào rừng khiến cây lá xào xạc và gửi lại những âm dội ngắn của tiếng chó sủa ở rất xa - một âm thanh lung linh mờ ảo có vẻ đã vọng đến chúng tôi từ ngưỡng cửa của một thế giới khác. Chúng tôi không gặp ai. Chỉ thấy hai con chim màu đỏ giật mình nhảy lên từ giữa đồng có và bay vụt vào rừng. Trong khi chúng tôi lững thững bên nhau, Naoko nói với tôi về những cái giếng.

    Ký ức thật ngộ. Khi còn ở trong cảnh thực thì tôi chẳng đề ý gì đến nó. Không bao giờ tôi nghĩ đến nó như một cái gì đó sẽ để lại một ấn tượng lâu dài, và chắc chắn là không thể tưởng tượng rằng mười tám năm sau tôi sẽ nhớ lại nó đến từng chi tiết. Ngày hôm đó tôi không quan tâm gì đến cảnh vật xung quanh. Tôi còn nghĩ đến bản thân mình, đến cô gái đẹp đang sánh bước với mình. Tôi đang nghĩ đến chuyện hai đứa với nhau, rồi lại đến bản thân mình. Tôi vẫn còn ở cái tuổi, ở cái đoạn của cuộc đời khi mọi cảnh trí, mọi cảm xúc, mọi ý nghĩ đều chỉ quay về chính bản thân mình như một chiếc boomerang.

    Và tệ hơn nữa, tôi đang yêu. Mối tình đầy khúc mắc. Đầu óc tôi không thể để ý đến cảnh vật xung quanh được.

    Ấy vậy mà giờ đây cái đầu tiên trở lại với tôi lại là cảnh trí đồng cỏ ngày hôm đó. Mùi cỏ, cảm giác hơi giá lạnh của ngọn gió, đường viền của những dải đồi, tiếng sủa của một con chó: đó là những thứ đầu tiên, và chúng hiện ra cực kì rõ ràng, tưởng như tôi có thể giơ tay ra và vuốt ve chúng. Thế nhưng, cho dù cảnh trí có rõ ràng đến mấy, vẫn không có ai trong đó cả. Không ai hết. Naoko không có ở đó, và cả tôi cũng vậy. Chúng tôi có thể biến đi đâu được chứ? Làm sao chuyện đó có thể xảy ra được?

    Tất cả những gì ngày đó còn có vẻ quan trọng - Naoko, cái bản ngã tôi có lúc bấy giờ, và cái thế giới tôi có lúc ấy: chúng có thế biến đi đâu được chứ? Thật sự là ngay cả gương mặt nàng tôi cũng không thể nhớ lại được - không ngay lập tức, ít nhất là thế. Tôi chỉ còn nắm giữ được một cái phông, đơn thuần cảnh trí, không có một người nào ở cận cảnh hết.

    Nói thật là nếu có thời gian, tôi vẫn có thể nhớ lại gương mặt nàng. Tôi phải chắp nối các hình ảnh vào với nhau - bàn tay lạnh tí xíu của nàng; mái tóc đen và duỗi thẳng của nàng, sờ vào thật mịn và thật mát; một cái thuỳ châu tròn trịa mềm mại và một nốt ruồi bé tí tẹo ngay bên dưới; chiếc áo khoác lông lạc đà nàng mặc mùa đông; thói quen nhìn thẳng vào mắt tôi mỗi khi nàng hỏi; giọng nói thỉnh thoầng lại hơi run run của nàng (như thể nàng đang nói trên một đỉnh đồi lộng gió) - và rồi gương mặt nàng bỗng ở đó, lúc nào cũng bắt đầu trong tư thế nhìn nghiêng, vì Naoko với tôi luôn có lối sánh bước bên nhau. Rồi nàng sẽ quay sang tôi, mỉm cười, hơi nghiêng đầu một chút, bắt đầu nói, và nhìn sâu vào mắt tôi như đang cố dõi theo một con cá nhỏ vừa bơi vụt qua một vùng nước của một con suối trong vắt.

    Dù sao, nhớ lại gương mặt Naoko là một việc mất thời gian. Và khi năm tháng cứ qua đi, quãng thời gian ấy cứ kéo dài mãi ra. Sự thật đáng buồn là cái mà tôi có thể nhớ lại được trong năm giây chẳng mấy chốc đã phải mất mười, rồi ba mươi giây, rồi trọn cả một phút - giống như bóng đổ cứ dài mãi ra cùng hoàng hôn vậy. Sẽ đến ngày, tôi nghĩ vậy, những bóng đổ ấy sẽ bị màn đêm nuốt chửng hết. Không có cách gì khác: kí ức tôi đang ngày càng xa cách cái điểm mà Naoko thường đứng - nơi cái bản ngã xưa cũ của tôi cũng thường ở đó. Và chỉ còn có cảnh trí, cái cảnh đồng cỏ tháng Mười ấy, là còn trơ lại với tôi, lần này qua lần khác, như khuôn hình tiêu biểu của một bộ phim. Mỗi lần xuất hiện, nó lại kích dộng một chỗ nào đó trong tâm trí tôi. Tỉnh dậy đi, nó nói, tôi vẫn ở đây mà. Hãy tỉnh dậy và suy nghĩ: Hãy nghĩ xem tại sao tôi vẫn ở đây. Những kích động ấy không bao giờ làm tôi đau đớn. Không có tí đau đớn nào. Chỉ có một âm thanh trống rỗng vọng lại tử mỗi lần kích động ấy. Và thậm chí cả cái đó nữa cũng sẽ phôi pha một ngày nào đó. Nhưng ở sân bay Hamburg, những kích động ấy lại mạnh hơn và lâu hơn thường lệ. Và đó chính là lý do tại sao tôi viết cuốn sách này. Để suy nghĩ. Để hiểu. Chẳng qua là cái tạng tôi nó thế. Tôi phải viết hết mọi thứ ra giấy để cảm thấy rằng mình thực thấu hiểu chúng.

    Bây giờ, hay xem hôm đó Naoko đang nói những chuyện gì?

    Phải rồi, chuyện "giếng đồng". Tôi chịu không thể biết liệu có một cái giếng như thế hay không. Có thể nó là một hình ảnh hoặc một dấu hiệu chỉ tồn tại trong con người Naoko, cũng như mọi thứ khác mà nàng thường thêu dệt thành sự thật trong tâm trí mình trong suốt những tháng ngày đen tối ấy. Vậy mà một khi nàng đã tả nó cho tôi nghe, tôi không thể nghĩ đến cảnh trí đồng có ấy mà không có cái giếng. Từ ngày ấy trở đi, hình ảnh của một thứ mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy đã hoà quyện khăng khít với cảnh trí thực của cánh đồng nằm ngay trước mắt tôi. Tôi có thể mô tả cái giếng đến từng chi tiết nhỏ. Nó nằm ngay ở nơi đồng cỏ kết thúc và rừng cây bắt đầu một lỗ mở đen ngòm vào lòng đất, đường kính tới một thước, cỏ mọc che đầy. Chẳng có gì đánh dấu chu vi của nó - không hàng rào, không thành giếng bằng đá (ít nhất là không có thành xây cao lên khỏi mặt đất). Nó chỉ là một cái lỗ, một cái miệng rộng ngoác. Những phiến đá quanh miệng giếng đã bị thời gian bào mòn, ngả một màu trắng nhem nhuốc lạ lùng. Chúng nứt nẻ, vỡ nát, và một con thằn lằn nhỏ xanh lét vừa trườn vào một kẽ nứt sâu hoắm. Ta có thể nghiêng người bên mép giếng và nhìn xuống để chẳng thấy gì hết. Điều duy nhất tôi biết về cái giếng là nó sâu khủng khiếp. Nó sâu đến độ không thể đo được, và đầy chặt bóng tối, như thể toàn bộ bóng tối của thế giới đã được nấu chảy và lèn vào đó đến tận cùng đậm đặc của chúng.

    "Nó sâu lắm, thực vậy," Naoko nói, cẩn thận lựa từng lời. Đôi khi nàng nói kiểu đó, chậm hẳn lại để tìm từng lời chính xác mình cần. "Nhưng không ai biết nó ở đâu," nàng nói tiếp. "Mình chỉ biết chắc một điều là nó ở đâu đó quanh đây."

    Hai tay đút sâu trong túi áo chen bằng vải tuýt, nàng mỉm cười với tôi như có ý "nói thật đấy!"

    "Nếu vậy thì nguy hiểm vô cùng." tôi nói. "Một cái giếng sâu, nhưng không ai biết nó ở đâu. Ta có thể ngã vào nó và thế là hết đời."

    "Hết đời. Aaaaaaaaaaaaa! Tũm một cái. Hết chuyện!"



    "Chết như thế thật chẳng ra sao cả," tôi nói.

    "Đúng vậy, chết thế thật khủng khiếp," Naoko nói, tay phủi một đám hạt cỏ vương trên áo. "Tốt nhất là mình gẫy cổ luôn, nhưng có thể mình lại chỉ gẫy chân và không xoay xở gì được. Mình kêu đến rách phổi nhưng không ai nghe thấy, và không thể hy vọng sẽ có ai tìm thấy mình, rồi bọn nhện và rết sẽ bò lên khắp người mình, xương của những nạn nhân trước lủng củng khắp xung quanh, rồi thì tối mò và ướt lạnh, và mãi tít trên đầu là cái chấm sáng tí ti như một mảnh trăng mùa đông.

    Mình chết trong đó, ở ngay đâu đây, dần dà tí một, chỉ có một mình."

    "Khiếp! Chỉ nghĩ đến chuyện ấy thôi là mình đã nổi da gà rồi," tôi nói. "Phải có ai tìm ra được cái của đó và xây một bửc tường xung quanh nó."

    "Nhưng không ai có thể tìm được nó. Tốt nhất là cậu đừng rời khỏi lối mòn."

    "Yên trí, mình không làm thế đâu."

    Naoko rút bàn tay trái ra khỏi túi áo và nắm chặt lấy tay tôi. "Cậu đừng lo," nàng nói. "Cậu sẽ ổn thôi. Cậu có thể chạy khắp quanh đây lúc nửa đêm mà cũng không bao giờ ngã xuống cái giếng đó. Cả mình nữa, mình sẽ không ngã xuống giếng chừng nào mình còn ở bên cậu."

    "Không bao giờ ư?"

    "Không bao giờ!"

    "Sao cậu chắc vậy?"

    "Mình biết vậy thôi," nàng nói, siết chặt tay tôi hơn và im lặng bước bên tôi. "Mình biết những chuyện đó. Mình luôn luôn đúng. Nó chẳng liên quan gì đến logic cả, mình chỉ cảm thấy như thế thôi. Ví dụ nhé, khi mình thực sự gần gụi cậu như thế này, mình không sợ một tí gì hết. Chẳng có gì đen tối hoặc xấu xa có thể cám dỗ được mình."

    "Vậy thì đó là giải pháp rồi," tôi nói. "Cậu chỉ cần luôn luôn ở bên cạnh mình như thế này thôi."

    "Cậu nói thật đấy chứ?"

    "Tất nhiên rồi."

    Naoko đứng dừng lại. Tôi cũng vậy. Nàng đặt hai tay lên vai tôi và nhìn vào mắt tôi. Sâu trong hai đồng tử nàng có một chất lỏng đen đặc đang xoáy tròn như một luồng gió xoáy lạ kỳ. Cặp mắt đẹp đẽ của nàng nhìn sâu mãi vào tôi một lúc lâu, rất lâu. Rồi nàng kiêng chân hết cớ và chạm má nàng vào má tôi. Cở chỉ ấm áp kì diệu ấy khiến con tim tôi ngừng đập trong khoảnh khắc.

    "Cám ơn cậu."

    "Không dám," tôi đáp.

    "Mình thật hạnh phúc vì cậu đã nói thế. Thật sự hạnh phúc," nàng nói với một nụ cười buồn rầu. "Nhưng không thể được."

    "Không thể được ư? Tại sao?"

    "Chuyện đó sẽ không phải. Nó sẽ khủng khiếp lắm. Nó…"

    Naoko bỗng ngậm miệng và lại bắt đầu bước đi. Tôi có thể thấy đủ mọi ý nghĩ đang quay cuồng trong đầu nàng, và thay vì chen vào chúng, tôi chỉ giữ im lặng và sánh bước với nàng.

    "Nó sẽ không phải - không phải với cậu, không phải với mình," nàng nói sau một hồi lâu lặng lẽ.

    "Không phải thế nào chứ?" tôi thì thầm.

    "Cậu không thấy sao? Không thể có chuyện một người cứ canh chừng một người khác mãi mãi và mãi mãi. Mình muốn nói là, giả dụ chúng mình lấy nhau. Cậu sẽ phải đi làm hàng ngày. Ai sẽ canh chừng mình khi cậu đi làm? Liệu mình có thể dính chặt với cậu từng phút từng giây trong suốt cả cuộc đời chúng ta chăng? Bình đẳng gì mà như vậy? Thứ quan hệ gì đây? Chẳng chóng thì chầy cậu sẽ phát ốm vì mình. Cậu sẽ tự hỏi cậu đang làm gì với cuộc đời của cậu, tại sao cậu phải dành hết thời gian của cậu để canh chừng người đàn bà này. Mình sẽ không thể chịu được chuyện đó. Nó không thể giải quyết được bất kì vấn đề nào của mình."

    "Nhưng đến lúc ấy những vấn đề của cậu sẽ không còn nữa cơ mà?" tôi nói, tay vỗ nhẹ vào lưng nàng. "Cuối cùng chúng sẽ kết thúc. Và khi đó, chúng ta sẽ cùng nghĩ đến chuyện tiếp theo. Có khi cậu lại phải giúp mình thì sao. Chúng ta không sống theo nguyên tắc kế toán tài chính. Nếu cậu cần mình, hãy cứ sử dụng mình. Cậu hiểu không? Tại sao cậu phải cứng nhắc thế? Cậu hãy thoải mái đi nào, đừng cảnh giác nữa. Cậu căng thẳng quá nên lúc nào cũng chỉ sợ gặp chuyện tồi tệ. Thả lỏng người đi, và mọi thứ khác của cậu sẽ nhẹ nhàng hơn."

    "Làm sao cậu có thể nói vậy được?" nàng hỏi với giọng đã cạn kiệt cảm xúc.

    Giọng nói của Naoko đánh động rằng có thể tôi đã lỡ lời điều gì đó.

    "Thử nói xem, làm sao cậu có thể nói như vậy được chứ," nàng nói, trân trối nhìn xuống mặt đất dưới chân mình. "Cậu chẳng nói được điều gì mà mình chưa biết. "Thả lỏng người đi, và mọi thứ khác của cậu sẽ nhẹ nhàng hơn." Nói thế với mình thì có nghĩa gì? Nếu mình thả lỏng thân xác mình bây giờ, mình sẽ tan rã. Mình đã luôn sống như thế này, và đó là cách sống duy nhất mà mình biết. Nếu mình thả lỏng trong một giây, mình sẽ không thể tìm được đường về. Mình sẽ tan thành từng mảnh, và những mảnh ấy sẽ bị thổi tung đi khắp nơi. Tại sao cậu không thấy được điều đó? Làm sao cậu có thể nói đến chuyện canh chừng cho mình nếu như cậu không thể thấy được điều đó?"

    Tôi nín lặng.

    "Mình hoang mang. Thực sự hoang mang. Và chuyện đó sâu sắc hơn cậu tưởng rất nhiều. Sâu hơn… đen tối hơn… lạnh lẽo hơn. Nhưng cậu hãy nói xem, làm sao mà cậu lại có thể ngủ với mình lần ấy? Làm sao cậu có thể làm một chuyện như vậy được? Tại sao cậu lại không để cho mình được yên thân một mình?"

    Bấy giờ chúng tôi đã đang bước đi trong cái yên ắng đáng sợ của một khu rừng thông. Xác những con ve đã chết khô từ dạo cuối hè rải rác khắp trên mặt lối đi, lạo xạo dưới gót giày. Như thể tìm kiếm một thứ gì mà chúng tôi đã đánh mất, Naoko và tôi tiếp tục chậm rãi bước theo lối mòn.

    "Mình xin lỗi," nàng nói, nắm lấy tay tôi và lắc đầu. "Mình không định hành hạ cậu. Hãy cố đừng để những gì mình nói làm cậu phiền lòng. Mình xin lỗi, thực lòng xin lỗi. Mình chỉ giận dữ với bản thân mà thôi."

    "Có lẽ mình chưa thực hiểu cậu," tôi nói. "Mình không được thông minh lắm đâu. Chuyện gì cũng phải lâu lâu mình mới hiểu ra. Nhưng nếu mình thực sự có thời gian, mình sẽ hiểu cậu bằng được - hơn bất kì ai khác trên thế gian này."

    Chúng tôi dừng bước và đứng trong khu rừng yên ắng, lắng nghe. Tôi dùng múi giày nghịch những quả thông và xác ve sầu, rồi ngẩng nhìn những mảnh trời qua vòm lá thông. Hai tay đút túi, Naoko đứng đó và suy nghĩ, mắt không nhìn vào đâu cụ thể.

    "Hãy nói xem, Toru", nàng lên tiếng. "Cậu có yêu mình không?"

    "Cậu biết là mình yêu cậu mà."

    "Vậy cậu có thể giúp mình hai việc không?"

    "Xin thưa, quí cô có thể có những ba điều ước kia!"

    Naoko mỉm cười và lắc đầu. "Không, hai là đủ rồi. Một là cậu hãy biết rằng mình rất biết ơn cậu đã đến tận đây thăm mình. Mình hy vọng cậu sẽ hiểu là cậu đã làm cho mình hạnh phúc biết bao nhiêu. Mình biết rằng nếu có cái gì có thể cứu được mình, thì chính là niềm hạnh phúc này đây. Có thể mình không biểu lộ được điều đó, nhưng thật là như vậy đấy."

    "Mình sẽ đến thăm cậu nữa mà," tôi nói. "Thế còn điều ước thứ hai?"

    "Mình muốn cậu luôn luôn nhớ đến mình. Cậu sẽ nhớ rằng mình đã tồn tại, rằng mình đã đứng cạnh cậu ở đây như thế này chứ?"

    "Lúc nào cũng vậy," tôi nói. "Mình sẽ luôn luôn nhớ."

    Nàng bước đi và không nói gì nữa. Những tia sáng mùa thu xiên qua cành lá nhảy nhót trên vai áo nàng. Một con chó lại cất tiếng sủa, nghe gần hơn trước. Naoko trèo lên một gò nhỏ, bước ra khỏi khu rừng và đi vội xuểng một triền dốc thoai thoai. Tôi theo nàng cách hai ba bước chân.

    "Lại đây nào," tôi gọi sau lưng nàng. "Cái giếng có thể ở đâu đó quanh đây." Naoko dừng lại và mỉm cười, rồi cầm lấy tay tôi. Chúng tôi đi nốt quãng đường, vai kề vai.

    "Cậu thực sự hứa là sẽ không quên mình chứ?" nàng hồi gần như thì thầm.

    "Mình sẽ không bao giờ quên cậu," tôi nói. "Không bao giờ mình có thể quên cậu."

    Vậy mà ký ức tôi đã ngày càng mờ nhạt đi, và tôi đã quên nhiều thứ mất rồi. Viết bằng hồi ức như thế này, tôi thường có những cơn sợ hãi đến thắt lòng. Nếu tôi đã quên mất điều quan trọng nhất thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ở đâu đó trong tôi có một bến lú tối tăm nơi tất cả những ký ức thực sự quan trọng bị chất đống lại và từ từ biến thành bùn đất?

    Cho dù có như vậy đi nữa, đó là tất cả những gì tôi có. Ghì chặt những ký ức không hoàn hảo, đang lu mờ và đã phôi pha ấy trên ngực, tôi tiếp tục viết cuốn sách này với toàn bộ sức căng tuyệt vọng của một người chết đói đang mút từng mẩu xương nhặt được. Đó là cách duy nhất tôi biết để giữ lời hứa với Naoko.

    Một lần, lâu lắm rồi, khi tôi còn trẻ, khi ký ức tôi còn sống động hơn giờ đây rất nhiều, tôi thường cố viết về nàng. Nhưng tôi không thể viết được một dòng nào.

    Tôi biết rằng nếu cái dòng đầu tiên ấy mà xong, phần còn lại sẽ tự nó trào ra mặt giấy, nhưng tôi không thể làm được điều đó. Mọi thứ còn quá sắc nét và rõ ràng, đến nỗi tôi không biết phải bắt đầu từ đâu - kiểu như một tấm bản đồ có quá nhiều chỉ dẫn đôi khi lại thành vô dụng.

    Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng tất cả những gì mình có thể chất lên con thuyền chữ nghĩa không hoàn hảo này chỉ là những ký ức không hoàn hảo và những ý nghĩ không hoàn hảo. Những ký ức về Naoko càng lu mờ trong tôi thì tôi lại càng hiểu nàng sâu sắc hơn. Tôi cũng đã biết tại sao nàng xin tôi đừng quên nàng. Bản thân Naoko biết điều đó, tất nhiên rồi. Nàng biết rằng ký ức của tôi về nàng sẽ phôi pha. Và chính thế mà nàng xin tôi đừng bao giờ quên nàng, hãy nhớ rằng nàng đã từng tồn tại.

    Ý nghĩ ấy xâm chiếm tôi với một nỗi đau tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi. Bởi lẽ Naoko chưa từng yêu tôi bao giờ.


    __________________

  2. The Following 3 Users Say Thank You to minhthang6 For This Useful Post:

    feng (30-07-2009), Kurosu (14-12-2012), yummy_lady (18-08-2010)

  3. #2
    Shokunin


    Thành Viên Thứ: 20668
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 33
    Thanks
    0
    Thanked 4 Times in 3 Posts
    Chương 2


    Đã có một thời, nhiều năm trước đây - đúng ra là hai mươi năm trước đây - tôi đã sống trong một khu học xá. Tôi mười tám tuổi và là sinh viên năm thứ nhất. Tôi mới đến Tokyo và chưa sống một mình bao giờ nên cha mẹ tôi rất lo, và họ thu xếp cho tôi ở trong một khu học xá tư nhân chứ không thuê một căn phòng riêng cho tôi như hầu hết các sinh viên khác. Khu học xá phục vụ cả ăn uống và nhiều tiện nghi khác nên có thể sẽ giúp đứa con mười tám tuổi đầu còn lớ ngớ của họ sống sót được. Và còn cả chuyện chi phí nữa. Ở khu học xá rẻ hơn nhiều so với thuê phòng riêng. Chỉ cần chăn chiếu và một cái đèn thôi là đủ, không phải mua thêm đồ đạc gì nhiều. Riêng tôi vẫn muốn thuê một căn hộ và sống thoải mái một mình, nhưng biết rằng cha mẹ còn phải trả tiền học và các thứ lệ phí khác cho cái trường đại học tư mà mình đã đỗ vào, nên tôi không dám đòi hỏi gì thêm. Ngoài ra, thực tình tôi cũng chẳng mấy quan tâm đến nơi ăn chốn ở của mình.

    Nằm trên một quả đồi ở trung tâm thành phố với tầm nhìn rộng rãi, khu học xá có một khuôn viên vuông vức và có tường bê-tông bao quanh. Một cái cây zelkova (Một loài cây thay lá, lá dài mép răng cưa và hoa nhỏ màu xanh, thuỷ tổ ở Trung Quốc, Nhật Bản và vùng núi Caucasus ở Nga - ND) khổng lồ cao vút mọc ngay ở sau chỗ cổng trước. Người ta nói nó đã một trăm năm mươi tuổi là ít. Đứng dưới gốc mà nhìn lên thì những tán lá xanh dày đặc của nó che kín hết cả trời.

    Lối đi lát gạch từ cổng vào chạy vòng quanh cái cây ấy rồi tiếp tục thẳng tuột qua giữa khu đất vuông của khu học xá. Hai dãy nhà ba tầng bằng bê-tông nằm đối diện nhau qua lối đi ấy. Chúng to lừng lững với rất nhiều cửa sổ và làm người ta có ấn tượng như chúng là những toà chung cư được cải tạo thành nhà tù hoặc là nhà tù cải tạo thành khu chung cư. Tuy nhiên chúng không có vẻ gì là bẩn thỉu, mà cũng không gây cảm giác tăm tối. Có thể nghe thấy tiếng radio vọng ra từ những cửa sổ để mở, và tất cả cửa sổ đều mắc một loại rèm màu kem mà nắng không thể làm bạc thêm được nữa.

    Qua khỏi hai dãy nhà đó, lối đi dẫn đến một toà nhà sinh hoạt chung có hai tầng, tầng dưới là nhà ăn và khu nhà tắm, tầng trên có một giảng đường, các phòng họp, và bảy phòng dành cho khách mà tôi không bao giờ biết họ là ai. Bên cạnh toà nhà sinh hoạt chung ấy lại là một khu nhà ở nữa, cũng ba tầng. Khắp khuôn viên vuông vức ấy phủ đầy những sân cỏ rộng rãi, và nước phun từ các vòi tưới xoay tròn lấp loá dưới nắng trờỉ. Phía sau toà nhà sinh hoạt chung là một sân có dùng để chơi bóng chày và bóng bầu dục, và sáu sân bóng quần. Khu học xá có đủ thứ ta có thể cần đến.

    Nó chỉ có mỗi một vấn đề: mùi vị chính trị của chính nó. Khu học xá được đặt dưới quyền của một kiểu tổ chức mờ ám xoay quanh một nhân vật cực hữu, và đối với tôi thì có một cái gì đó rất xiên xẹo trong cách họ điều hành cơ sở này. Có thể thấy điều đó trong cuốn sách nhỏ họ phát cho sinh viên mới đến và trong cả nội quy của khu học xá. Họ tuyên bố rằng khu học xá được thành lập theo "tinh thần chủ đạo" là "nỗ lực bồi dưỡng nguồn nhân lực quốc dân thông qua chất lượng tối cao của những cơ sở giáo dục", và nhiều đại gia tài chính ủng hộ

    "tinh thần" này đã đóng góp tiền riêng của họ vào việc xây dựng nó. Đó là bộ mặt công khai của dự án, mặc dù bên dưới đó là gì thì còn cực kỳ mơ hồ. Có người nói đây là một kiểu công trình trốn thuế, có người lại coi đây là một màn trình diễn lấy danh tiếng của những nhân vật góp vốn, lại cũng có người nói rằng việc xây khu học xá chỉ là để che đậy hành vi chiếm đoạt một miếng gan miếng tiết của bất động sản công cộng. Nhưng có một chuyện chắc chắn là có thật: trong kí túc xá có một câu lạc bộ đặc tuyển gồm toàn những sinh viên thượng lưu từ nhiều trường đại học khác nhau. Họ lập ra nhưng "nhóm học tập" họp nhau nhiều lần một tháng với sự tham gia của cả nhiều sáng lập viên. Thành viên nào của câu lạc bộ này cũng chắc chắn sẽ có công ăn việc làm ngon lành sau khi tốt nghiệp. Tôi cũng chẳng biết trong những lý thuyết này, nếu có thể gọi thế, có cái nào đúng không, nhưng tất cả chúng đều có chung một giả định rằng có gì đó mờ ám về cơ sở này.

    Dù sao, tôi cũng đã có hai năm - từ mùa xuân 1968 đến mùa xuân 1970 - sống trong cái khu học xá "mờ ám" ấy. Cũng không thể giải thích được tại sao tôi lại chịu đựng được nó lâu đến thế. Về mặt sinh hoạt hàng ngày thì dù nó có là hữu khuynh hay tả khuynh hoặc gì gì đi nữa thì cũng chẳng khác gì đối với tôi.

    Ngày nào cũng khởi đầu bằng một lễ kéo cờ trịnh trọng. Họ chơi cả nhạc quốc thiều, tất nhiên rồi. Hai việc ấy không thể thiếu nhau được. Cột cờ trồng ở chính giữa khu học xá, có thể nhìn thấy từ cửa sổ của cả ba khu nhà ở.

    Trưởng khu nhà ở phía đông (nơi tôi kí túc) là người phụ trách lá cờ. Ông ta cao lớn, mắt diều hâu, tuổi trạc già năm mươi non sáu mươi. Mớ tóc xù của ông đã điểm bạc, và cái cổ rám nắng của ông có một vết sẹo dài. Người ta kháo nhau rằng ông đã tốt nghiệp trường huấn luyện tình báo Nakano từ thời chiến tranh, nhưng không ai biết chắc cả. Đứng cạnh ông là một sinh viên trợ lí. Cả anh chàng này cũng không ai biết rố lai lịch. Anh ta có mái đầu húi cua ngắn nhất thế giới và lúc nào cũng mặc đồng phục sinh viên màu xanh thuỷ quân. Tôi không biết tên anh ta, cũng chẳng biết anh ta ở phòng nào, không bao giờ gặp anh ta trong nhà ăn hoặc nhà tắm. Thậm chí tôi không chắc anh ta có phải là sinh viên hay không nữa, mặc dù ai cũng nghĩ anh ta phải là sinh viên, vì cái bộ đồng phục ấy, vốn đã nhanh chóng trở thành biệt hiệu của anh ta. Trái ngược với Ngài Nakano, "Đồng phục" lùn tè, phục phịch, mặt mũi nhợt nhạt. Hai con người làm thành một cặp trông ghê ghê ấy ngày nào cũng kéo lá cờ Mặt trời mọc lên vào lúc sáu giờ sáng.

    Khi tôi mới vào khu học xá, cái mới lạ của sự kiện đó thường khiến tôi dậy sớm để kịp chứng kiến nghi thức ái quốc này. Hai người sẽ xuất hiện dưới sân hầu như đúng vào lúc đài phát thanh phát đi tín hiệu sáu giờ.

    "Đồng phục" mặc đồng phục, tất nhiên rồi, với giày da đen, còn Nakano thì xách theo bên mình một máy ghi âm hiệu Sony. Ông đặt cái máy xuống cạnh chân cột cờ trong khi "Đồng phục" mở một cái hộp để lộ lá cờ được gấp gọn gàng ở bên trong. Anh ta kính cẩn dâng lá cờ cho Nakano. Ông này mắc nó vào dây trên cột cờ, để lộ hình tròn đỏ chói của Mặt trời mọc trên nền trắng tinh khiết.

    Sau đó, "Đồng phục" bấm nút cho chạy nhạc quốc thiều.

    "Cầu cho Chúa tể chúng ta sẽ ngự trị…"

    Và lá cờ sẽ leo lên.

    "Cho đến khi sổi cuội thành đá tảng…"

    Nó sẽ lên đến nửa cột.

    "Và được rêu xanh bao phủ…"

    Bây giờ thì nó đã ở trên ngọn cột. Hai người ấy đứng nghiêm, im phăng phắc, ngẩng nhìn lá cờ lúc ấy đã là cả một hình ảnh kì vỹ trong những ngày đẹp trời lộng gió.

    Lễ hạ cờ được cử hành lúc chiều tối với cùng một vẻ trang nghiêm như thế, nhưng theo trình tự ngược lại. Lá cở sẽ trèo xuống và tìm về chỗ của nó trong chiếc hộp.

    Quốc kỳ không tung bay trong đêm tối.

    Tôi không biết tại sao lá cờ phải được hạ xuống vào ban đêm. Quốc dân vẫn tiếp tục tồn tại qua đêm tối, và biết bao nhiêu người vẫn làm việc suốt đêm - thợ xây dựng đường sắt và những người lái taxi, rồi chủ các quán bar, lính cứu hoả, người gác đêm. Tôi thấy có vẻ thật bất công khi những người này bị tước mất quyền được lá cờ bảo vệ. Hoặc giả chuyện này cũng chẳng hệ trọng đến thế mà cũng chẳng có ai quan tâm - trừ tôi. Cũng chẳng phải là tôi thực sự quan tâm. Chỉ vì nó tình cờ đi qua tâm trí tôi thế thôi.

    Nội quy bắt buộc sinh viên năm đầu và năm thứ hai phải ở hai người một phòng, còn sinh viên năm thứ ba và năm cuối thì được ở riêng mỗi người một phòng. Phòng đôi thì dài hơn và hẹp hơn cỡ phòng bề ba mét bề bốn mét một chút, với một cửa sổ khung nhôm kính trên bức tường đối diện cửa ra vào và hai chiếc bàn kê cạnh đó theo lối để hai người ngồi học quay lưng vào nhau. Bên trái cửa ra vào kê một bộ giường tầng khung thép. Đồ đạc đi liền với phòng đều chắc chắn và giản dị, bao gồm hai tủ sắt đựng quần áo có khoá, một bàn nước nhỏ, và một số giá đỡ liền tường. Ngay cả người dễ tính nhất cũng khó lòng gọi cách bài trí ấy là thơ mộng. Trên giá đỡ của hầu hết các phòng đều thấy để những đồ như đài bán dẫn, máy sấy tóc, ấm đun nước và nồi cơm điện, cà-phê tan, trà túi, đường miếng, và những nồi bát đơn giản để nấu mì ăn liền. Trên tường treo đầy những ảnh cắt từ tạp chí dành cho con gái hoặc bích chương quảng cáo phim ảnh khiêu dâm ăn trộm được. Một gã có hình chụp lợn đang đi tơ nhau, nhưng đó là một ngoại lệ đặc biệt so với đa số hình ảnh đàn bà trần truồng bình thường, các nữ ca sĩ phổ thông hoặc nữ diễn viên. Giá sách phía trên bàn học thì đựng sách giáo khoa, tự điển và tiểu thuyết.

    Rác rưởi của những căn phòng toàn bọn con trai này thật khủng khiếp. Vỏ quýt mốc meo dính chặt vào đáy những bồ đựng giấy loại. Những vỏ đồ hộp dùng làm gạt tàn chất đầy đầu mẩu thuốc lá, và khi chúng bắt lửa âm ỉ cháy thì liền bị giội cà-phê hoặc bia rồi đề mặc đó cho đến lúc bốc mùi chua loét. Bụi đen và những vụn bẩn vô tăm tích bám đầy bát đĩa trên, các giá đỡ, và sàn nhà thì đầy những vỏ mì ăn lỉền và hộp bia rỗng cùng những nắp đậy của thứ này thứ kia vứt lung tung. Không ai nghĩ đến việc quét nhà và dọn rác. Cơn gió nào thổi qua phòng cũng làm bụi bốc lên mù mịt. Mỗi phòng có một mùi gớm guốc riêng của mình, nhưng cấu phần của cái mùi ấy thì đều như nhau: mồ hôi, mùi thân thế bẩn thỉu, và mùi rác rưỡi. Quần áo bẩn chất đống dưới gầm giường, và vì không có ai thèm phơi phóng chăn nệm thường xuyên nên những thứ vải vóc ngấm đẫm mồ hôi ấy bốc mùi hôi hầm không thể cứu chữa nổi. Nghĩ lại, có vẻ thật kì diệu là những đống hôi thối ấy không làm nay sinh dịch bệnh chết người nào.

    Nhưng buồng tôi ở lại sạch tinh tươm như một phòng ướp xác. Sàn nhà và cửa sổ không một vết bẩn, chăn nệm tuần nào cũng được phơi phóng, tất cả bút chì đều đứng ngay ngắn trong hộp đựng của chúng, thậm chí màn cửa cũng được giặt mỗi tháng một lần. Bạn cùng phòng với tôi là một gã sạch sẽ đến mức bệnh hoạn. Khỏng có ai trong khu học xá tin lời tôi khi tôi kề chuyện giặt màn cửa phòng mình. Chúng không biết rằng màn cửa lại có thể giặt được. Hình như chúng tin rằng màn cửa là một bộ phận bán thường xuyên của kết cấu cửa sổ.

    "Thằng cha đó hỏng rồi," chúng nói, và đặt biệt danh cho anh bạn tôi là một thằng lính phát xít, một tên Quốc-xã.

    Thậm chí chúng tôi không có cả ảnh trên tường. Không, chúng tôi có bức ảnh chụp một con kênh đào ở Amsterdam. Trước đấy tôi đã ghim một tấm ảnh khoả thân lên rồi, nhưng bạn cùng phòng với tôi lại hạ nó xuống. "Này, Watanabe," hắn nói, "tơ-tơ-tớ không khoái mấy của này lắm đâu," rồi găm luôn cái ảnh kênh đào lên thay. Tôi cũng không mặn mà gì với cái ảnh khoả thân, nên chẳng buồn phản đối làm gì.

    "Cái quái gì thế kia hả?" Đó là câu cảm thán đôi với bức ảnh kênh đào Amsterdam của tất cả bọn con trai đã từng vào phòng tôi.

    "À, Quốc-xã nó thích vừa nhìn cái đó vừa cho ra bằng tay," tôi nói.

    Tôi chỉ định đùa thôi, nhưng tất cả bọn chúng lại tin là thật - đến nỗi chính tôi cũng bắt đầu tin đó là chuyện thật.

    Ai cũng tỏ vẻ thương tôi vì phải ở chung với Quốc-xã, nhưng thực tình tôi không khó chịu gì chuyện đó. Hắn để tôi yên thân chừng nào tôi giữ chỗ của mình thật sạch sẽ, và thực tế là ở cùng phòng với hắn lại dễ chịu hơn trong nhiều chuyện. Hắn làm tất các việc dọn dẹp, hắn phơi phóng chăn nệm, hắn thu dọn và đổ rác. Hắn hít hít mấy cái và khuyên tôi nên đi tắm nếu tôi đã quá bận đến nỗi mấy ngày rồi chưa tắm. Thậm chí hắn còn nhắc tôi đã đến lúc phải đi cắt tóc hoặc tỉa lông mũi. Chỉ có một thứ làm tôi khó chịu, đó là cái lối hắn phun thuốc trừ sâu mù mịt mỗi khi phát hiện ra dù chỉ một con ruồi thôi ở trong phòng, vì lúc ấy tôi sẽ phải tị nạn sang một cái chuồng chỗ hàng xóm nào đó.

    Quốc-xã học địa lý ở một trường đại học quốc gia.

    Như lời hắn nói ở buổi sơ giao, "Tớ học về bờ-bờ-bản-bản đồ."

    "Cậu thích bản đồ à?" Tôi hỏi.

    "Đúng vậy. Khi tốt nghiệp, tớ sẽ vào làm việc cho Viện Địa Đạc và làm bờ-bờ-bản-ban đồ."

    "Nhưng không thể thế được," hắn nói, giọng tỉnh bơ. "Tớ không thể bỏ một động tác nào. Tớ đã tập thế này mỗi sáng trong suốt mười năm qua, và hễ bắt đầu là mọi thứ cứ thế tự động diên ra một cách vô thức. Bỏ một động tác nào là tớ phải bỏ hết mất."

    Tôi không biết nói gì thêm. Còn nói gì được nữa? Cách nhanh nhất để chấm dứt tình trạng ấy là đợi cho hắn ra khỏi phòng và quăng cái đài chết tiệt của hắn qua cái cửa sổ chết dẫm kia, nhưng tôi biết nếu làm vậy thì mọi việc sẽ tá hoả tam tinh. Quốc-xã quý hoá đồ của hắn lắm. Hắn mỉm cười khi thấy tôi ngồi thừ trên mép giường, và cố an ủi tôi.

    "Này, Watanabe, sao cậu không dậy tập thể dục cùng với tớ cho xong?" Rồi hắn đi ăn sáng.

    ***

    Naoko chặc lưỡi khi tôi kể cho nàng về Quốc-xã và những bài tập thể dục theo đài của hắn. Tôi không định làm nàng cười, nhưng chính tôi lại phì cười vì câu chuyện của mình. Nàng chỉ hơi mỉm cười một chút, nhưng đó là lần đầu tôi thấy một nụ cười ở nàng và cảm thấy vui vì nó trong một lúc thật lâu.

    Chúng tôi vừa xuống tàu ở ga Yotsuya và đang đi bộ dọc bờ kè bên ngoài nhà ga. Đó là một chiều Chủ nhật khoang giữa tháng Năm. Nhưng trận mưa rào ngắn ngủi suốt buổi sáng đã tạnh hẳn, và gió nam đã xua tan những đám mây là là mặt đất. Những đám lá anh đào xanh biếc xào xạc trong không trung, long lanh hắt nắng đi tứ phía. Đó là một ngày đầu hè. Nhưng người đi ngang chúng tôi đều vắt áo len hoặc áo ngoài của họ trên vai, hoặc cầm ở tay. Ai cũng có vẻ đang vui hướng một chiều Chủ nhật đầy nắng ấm. Đám thanh niên chơi bóng quần trong khu sân ở phía bên kia bờ kè đã cởi trần mặc quần cộc. Chỉ có chỗ hai bà sơ vẫn mặc trang phục mùa đông đang ngồi chuyện trò trên một chiếc ghế dài là có vẻ chưa có mùa hè, mặc dù họ đều ngồi ngay dưới nắng.

    Mười lăm phút đi bộ và tôi đã toát mồ hôi đến mức phải cởi cả chiếc sơ-mi vải bông dày của mình và đi tiếp với chiếc áo phông còn lại trên người. Naoko đã xắn cao tay áo chiếc sơ-mi màu xám nhạt của nàng. Chiếc sơ-mi phai màu rất đẹp, rõ ràng đã giặt rất nhiều lần. Tôi cảm thấy như đã thấy nàng mặc chiếc sơ-mi ấy từ rất lâu rồi.

    Chỉ là cảm giác thế thôi, tôi nhớ không rõ lắm. Lúc ấy tôi vẫn chưa có gì nhiều để nhớ về Naoko.

    "Sống tập thể thế cậu có thích không? Nàng hỏi. "Sống chung với nhiều người thế có vui không?"

    "Mình không biết, mình mới sống thế chừng một tháng. Không đến nỗi tệ như người ta tưởng, mình có thể chịu được."

    Nàng dừng lại bên một vòi nước uống và nhấp một ngụm, lau miệng bằng một chiếc khăn tay trắng lấy từ túi quần ra. Rồi nàng cúi xuống và cẩn thận buộc lại dây giày.

    "Cậu nghĩ mình có sống thế được không?"

    "Cái gì kia? Sống trong một khu học xá ấy à?"

    "Ờ"

    "Mình nghĩ chỉ là vấn đề thái độ thôi. Nếu muốn thì có rất nhiều thứ có thể làm ta bực bội - nào nội quy, nào những thằng ngốc mà lại tưởng mình là ghê lắm, ấy là chưa kể bạn cùng phòng nhất định tập thể dục theo đài vào lúc sáu rưỡi sáng. Nhưng thật ra ở đâu thì cũng vậy thôi, rồi cũng xong cả."

    "Có lẽ thế," nàng gật đầu. Hình như nàng đang suy nghĩ điều gì đó. Rồi nàng nhìn thẳng vào mắt tôi như thể đang xoáy vào một thứ gì lạ lẫm lắm. Lúc ấy tôi mới thấy mắt nàng sâu thăm và trong vắt đến mức chúng làm tôi như ngộp thở. Tôi chợt nhận ra mình đã chưa khi nào có dịp nhìn vào mắt nàng như thế. Đó là lần đầu tiên hai chúng tôi đi bộ với nhau và nói chuyện lâu như vậy.

    "Cậu đang nghĩ sẽ vào một khu học xá sống hay sao đấy?" tôi hỏi.

    "Ờ," nàng đáp. "Mình chỉ đang không biết sống tập thể sẽ ra sao. Với lại…" Có vẻ như nàng đang cố tìm từ hoặc cách diễn đạt cho chính xác mà chưa được. Rồi nàng thở dài, mắt nhìn xuống. "Ôi chao, mình cũng không biết nữa. Cậu đừng để ý làm gì."

    Cuộc nói chuyện đến đấy là hết. Nàng tiếp tục đi về phía đông, và tôi bước ngay sau nàng.

    Đã gần một năm rồi tôi mới gặp lại Naoko, và nàng đã sút cân đến nỗi trông như một người khác. Cặp má phinh phính rất đặc biệt của nàng hầu như không còn nữa, và cổ nàng đã mảnh dẻ hẳn đi. Không phải nàng có vẻ gày gò hoặc ốm yếu: cái vẻ thanh mảnh ấy của nàng có cái gì rất tự nhiên và bình thản, như thể nàng đã ẩn náu trong một không gian hẹp và dài cho đến lúc bản thân nàng trở thành hẹp và dài vậy. Và xinh đẹp ra nhiều. Tôi muốn nói với nàng điều đó, nhưng không thể tìm được cách nói cho hay.

    Chúng tôi đã không hẹn mà tình cờ gặp nhau trên tuyến tàu Chuo vẫn đưa chúng tôi đi học hàng ngày.

    Nàng đã quyết định đi xem phim một mình, còn tôi đang trên đường đến mấy hiệu sách ở Kanda - cả hai đứa đều chẳng có việc gì gấp. Nàng nêu ý kiến bỏ tàu ra ngoài phố, và chúng tôi đã làm vậy ở ga Yotsuya, nơi có thể đi bộ rất hay dọc bờ kè có trồng cây của con hào bao quanh một lâu đài cổ. Khi còn hai đứa với nhau, chúng tôi chẳng có chuyện gì đặc biệt để nói, và tôi cũng chẳng biết tại sao Naoko lại thích ra khỏi tàu. Từ trước chúng tôi cũng đã chẳng có gì nhiều để nói cùng nhau.

    Vừa ra đến phố là Naoko bắt đầu bước đi, và tôi phải rảo bước mới theo kịp, cách nàng vài bước. Tôi có thể đuổi kịp nàng, nhưng có cái gì đó ngăn tôi lại. Tôi bước đi, mắt nhìn bờ vai nàng và mái tóc đen buông thẳng của nàng. Nàng dùng một dai buộc tóc màu nâu rộng bản, và mỗi khi nàng quay đầu, tôi lại thoáng thấy một vành tai trắng nhỏ của nàng. Thỉnh thoảng nàng nhìn lại sau và nói điều gì đó. Có khi là một câu nhận xét mà tôi có thể đáp lại được; có khi là cái gì đó tôi chịu không thể hiểu và đáp được. Một khi đã nói xong điều muốn nói, nàng lại hướng về phía trước và tiếp tục bước đi ôi chao, thì có làm sao, tôi tự nhủ, chẳng phải là một ngày đẹp trời để đi dạo đó sao.

    Nhưng với Naoko thì đó không phải chỉ là một cuộc dạo chơi đơn thuần. Cứ đề ý thì thấy ngay: nàng rẽ phải ở Iidabashi, ra chỗ hào nước, vượt ngã tư ở

    Jinbocho, lên quả đồi ở Ochanomizu và ra khỏi khu vực đó ở Hongo. Từ đó nàng đi theo đường tàu điện đến tận Komagome. Một lộ trình rất mệt. Lúc chúng tôi đến Komagome thì đã xế chiều và ngày đầu hè ấy đã thành ra một tối mùa xuân dìu dịu.

    "Chúng mình đang ở đâu ấy nhỉ?" Naoko hỏi, có vẻ như vừa sực tỉnh và nhìn quanh mình lần đầu tiên.

    "Komagome," tôi nói. "Cậu không biết ư? Chúng mình đã đi một vòng lớn."

    "Sao mình lại đến đây?"

    "Cậu dẫn đường mà. Mình chỉ đi theo cậu thôi."

    Chúng tôi đến một cửa hàng cạnh ga tàu điện để ăn một bát mì. Khát quá, tôi uống hết cả một chai bia. Không đứa nào nói gì từ lúc gọi đồ ăn cho tới lúc ăn xong. Tôi mệt lử sau cuốc đi bộ dài ấy, còn nàng thì ngồi dể hai tay lên bàn, miệng lại lẩm nhẩm chuyện gì đó. Bản tin trên TV đang nói rằng tất cả những địa điểm vui chơi giải trí trong ngày Chủ nhật ấm áp đó đều đã đông nghịt người. Còn chúng tôi thì đã đi bộ từ Yotsuya cho đến tận Komagome, tôi tự nhủ.

    "Này, cậu khỏe thật đấy," tôi lên tiếng sau khi đã ăn hết bát mì.

    "Ngạc nhiên không?"

    "Có"

    "Mình đã từng là vận động viên chạy đường dài ở trường trung học. Nói để cậu biết thế. Mình thường chạy những chặng mười cây số một. Và từ lúc mình bắt đầu có kí ức thì Chủ nhật nào bố mình cũng đưa mình đi leo núi. Cậu biết nhà mình không, ở ngay kia kìa, cạnh núi ấy. Chân mình lúc nào cũng khỏe."

    "Nhìn cậu thì không biết được," tôi nói.

    "Mình biết," nàng đáp. "Mọi người đều tưởng mình chỉ là một con nhóc yếu ớt. Nhưng không thể nhìn bìa mà đánh giá cuốn sách được." Rồi nàng thêm một thoáng mỉm cười vào câu nói ấy."

    "Điều ấy đúng với mình quá," tôi nói. "Mình mệt nhoài ra rồi."

    "Thôi chết, xin lỗi nhé, mình đã lôi cậu đi quanh quẩn suốt cả ngày."

    "Dù sao, mình rất vui là chúng ta đã có dịp chuyện trò. Hai đứa mình chưa có dịp nào thế này, chỉ có hai đứa với nhau," tôi nói, cố nghĩ xem chúng tôi đã nói những chuyện gì với nhau mà không được.

    Nàng đang nghịch cái gạt tàn trên bàn.

    "Không biết…" nàng bắt đầu, "…nếu cậu không phản đối… mình muốn nói là, nếu thực sự cậu không thấy phiền… Cậu nghĩ chúng mình có nên gặp lại nhau nữa không? Mình biết mình chẳng có quyền gì mà hỏi cậu chuyện này."

    "Có quyền gì ư? Cậu nói gì thế?"

    Nàng đỏ bừng mặt. Phản ứng của tôi với lời đề nghị của nàng có lẽ hơi mạnh.

    "Mình không biết… Thực là mình không thể giải thích được," nàng nói, trong khi kéo tay áo lên quá khuỷu rồi lại hạ xuống. Lớp lông mịn trên cánh tay nàng ánh lên một màu vàng thật đáng yêu dưới ánh đèn của cửa hàng.

    "Mình không định nói "quyền" theo nghĩa chính xác của từ đó. Mình đang tìm cách nói khác."

    Hai khuỷu tay đặt trên bàn, nàng chăm chú nhìn lên tờ lịch treo trên tường, gần như thể đang hy vọng sẽ tìm thấy cách diễn đạt thích hợp nhất ở đó. Không thấy gì nàng thở dài, nhắm mắt và mân mê dải buộc tóc.

    "Đừng bận tâm thế," tôi nói. "Có lẽ mình đã hiểu cậu muốn nói gì. Mình cũng chẳng biết nói điều đó như thế nào nữa."

    "Chẳng bao giờ mình có thể nói được điều mình muốn nói," Naoko tiếp lời. "Như vậy cũng lâu lâu rồi. Mình cố nói một điều gì đó, nhưng nói ra từ nào là sai từ ấy chúng đều không đúng hoặc ngược hẳn lại với điều mình định nói. Mình cố khắc phục, nhưng chỉ càng tệ hơn. Thứ nhất là mình quên luôn cả điều định nói. Giống như mình bị chẻ ra làm hai và phải theo dõi lẫn nhau. Nửa này đang đuổi theo nửa kia, vòng quanh một cái cột to bự. Nửa kia của mình có những từ đúng, nhưng nửa này của mình lại không thể bắt được nó." Nàng ngẩng lên nhìn vào mắt tôi. "Chuyện đó có tí ý nghĩa gì với cậu không?"

    "Nhưng ở một chừng mực nào đó thì ai cũng cảm thấy thế cả," tôi nói. "Ai cũng đều cố diễn đạt mình và đều thấy phiền lòng khi không thể làm tốt được việc đó."

    Naoko có vẻ thất vọng vì câu đáp của tôi. "Không, càng không phải là như vậy?" nàng nói và không giải thích gì thêm.

    "Nhưng mà mình sẽ rất thích được gặp lại cậu," tôi nói. "Chủ nhật nào mình cũng rảnh, và đi bộ sẽ rất tốt với mình.

    Chúng tôi lên tàu chạy đường Yamanote, và Naoko chuyển sang tuyến Chuo ở ga Shinjuku. Nàng sống trong một căn hộ tí xíu ở mãi khu ngoại ô phía tây Kokubunji.

    "Này cậu, nàng nói lúc chia tay." Lối nói chuyện của mình có gì khác trước không?"

    "Tất nhiên rồi. Mình sẽ đợi đấy."

    Tôi gặp Naoko lần đầu tiên lúc còn học lớp Sáu trung học. Nàng cũng đang lớp Sáu nhưng học ở một trường nữ sinh Cơ Đốc giáo vào loại hạng nhất. Cái trường ấy sang đến mức nếu học gạo quá sẽ bị coi là thô thiển. Naoko là bạn gái của người bạn thân nhất (và duy nhất) của tôi là Kizuki. Naoko và Kizuki đã thân thiết với nhau gần như từ hồi mới đẻ, hai gia đình sống cách nhau chưa đầy hai trăm mét.

    Cũng như hầu hết những cặp trai gái đã chơi với nhau từ thuở ấu thơ, quan hệ của Kizuki và Naoko có một không khí cởi mở rất thoải mái và họ cũng chẳng thấy cần phải được bên nhau một mình. Họ luôn đến nhà nhau, ăn uống và chơi mạt chược với mọi người khác trong gia đình nhau. Tôi đã đi chơi tay bốn cùng họ rất nhiều lần. Naoko sẽ dẫn một bạn ở trường nàng đến cho tôi và bốn chúng tôi cùng đi chơi bách thú hoặc đánh bi-a hoặc xem phim với nhau. Những cô bạn nàng dẫn về cho tôi đều xinh đẹp nhưng hơi sang trọng quá so với thị hiểu của tôi. Tôi dễ chơi hơn với những cô gái có vẻ thô thiển hơn ở cùng trường công với tôi, thấy dễ chuyện trò hơn. Tôi chưa bao giờ đoán được chuyện gì đang diễn ra trong những cái đầu xinh đẹp của các cô gái mà Naoko dẫn theo nàng, và có thể là họ cũng không thể hiểu được tôi.

    Được một thời gian thì Kizuki từ bỏ ý định ghép bạn cho tôi, và thế là ba chúng tôi chơi cùng nhau. Kizuki và Naoko và tôi: cũng lạ, nhưng đó lại là một cấu hình thoải mái nhất. Đưa thêm một người thứ tư vào cấu hình đó lúc nào cũng khiến mọi chuyện thành vụng về khó xử.

    Chúng tôi giống như đội làm chương trình gặp gỡ chuyện trò trên TV, với tôi đóng vai khách, Kizuki làm người dẫn chương trình, và Naoko là trợ lí của cậu ta.

    Kizuki giỏi việc thủ những vai trò trung tâm như thế. Thực tình, cậu ấy có một vẻ giễu cợt thường khiến mọi người nghĩ là cậu ngạo mạn, nhưng thật sự thì cậu là một người rất công bình và chu đáo. Cậu biết phân phát những lời nhận xét và đùa bỡn một cách công bằng cho cả Naoko và tôi, cẩn thận để không đứa nào cảm thấy bị bỏ rơi. Nếu một trong hai đứa im lặng quá lâu, cậu sẽ hướng câu chuyện về đó để người ấy phải lên tiếng. Cậu biết cách theo dõi và điều chỉnh không khí xung quanh từng giây một, và chuyện đó chắc chắn không dễ dàng như ta thấy chút nào. Ngoài ra, cậu còn có một cái tài rất hiếm là biết tìm thấy những cái thú vị trong những câu nói chung chung chẳng thú vị chút nào của người khác, cho nên khi chuyện trò với Kizuki, ta cẳm thấy như mình là một con người đặc biệt thú vị với một cuộc sống đặc biệt thú vị.

    Ấy vậy, mà cậu lại chẳng quảng giao chút nào. Tôi là thằng bạn thực sự duy nhất của cậu ở trường. Tôi không thể hiểu tại sao một diễn giả thông minh và đầy năng lực như thế lại không hướng tài năng của mình vào cái thế giới mênh mông ở ngoài kia mà lại bằng lòng tập trung vào bộ ba nhỏ bé của chúng tôi. Mà tôi cũng không biết tại sao cậu chọn tôi làm bạn. Tôi chỉ là một thằng nhóc bình thường thích đọc sách, nghe nhạc và không hề có gì nổi bật để có thể khiến cho một người như Kizuki phải để ý đến. Thế mà chúng tôi đã thân nhau ngay lập tức. Cha cậu là một nha sĩ, nổi tiếng thạo nghề và lấy tiền công rất cao.

    "Chủ nhật này có muốn đi chơi cặp đôi với bọn tớ không?" Cậu hỏi tôi ngay sau khi mới gặp nhau. "Bạn gái tớ học trường nữ sinh, cô ấy sẽ dẫn theo một người đẹp cho cậu."

    "Được thôi," tôi nói. Tôi đã gặp Naoko như vậy đấy!"

    Ba đứa chúng tôi chơi với nhau rất nhiều, nhưng hễ Kizuki cứ ra khỏi phòng là Naoko và tôi lại thấy lúng túng chẳng biết nói gì với nhau. Chúng tôi chưa bao giờ biết nên nói vđi nhau về chuyện gì. Và sự thực là chúng tôi không có chung một chủ đề nào để cùng trò chuyện. Thay vì nói chuyện, chúng tôi hết uống nước lại nghịch ngợm gì đó trên bàn và đợi Kizuki về để lại bắt đầu tán chuyện. Naoko không phải là người hay nói, còn tôi thì nghe giỏi hơn nói, nên tôi luôn thấy lúng túng khi một mình với nàng. Không phải chúng tôi không hợp nhau. Chúng tôi chỉ không có gì để nói.

    Naoko và tôi chỉ gặp nhau một lần sau tang lễ của Kizuki. Hai tuần sau sự kiện đó, chúng tôi gặp nhau tại một quán cà-phê để giải quyết vài việc nhỏ, và khi xong rồi thì chúng tôi chẳng còn gì để nói. Tôi cố đưa ra nhiều chủ đề khác nhau nhưng chẳng đi đến đâu. Và khi Naoko mở miệng thì giọng nàng gay gắt thế nào đó. Nàng có vẻ giận dữ với tôi, nhưng tôi chịu không biết tại sao. Chúng tôi không gặp lại nhau lần nào nữa, cho mãi đến một năm sau, khi chúng tôi tình cờ thấy nhau trên tuyến tàu Chuo ở Tokyo ngày đó.

    Có lẽ Naoko đã giận tôi vì chính tôi, chứ không phải nàng, đã là ngưởi cuối cùng gặp Kizuki. Có lẽ nói thế cũng chưa chính xác, nhưng tôi hiểu tình cảm của nàng, không ít thì nhiều. Nếu có thể, tôi đã đánh đổi địa vị ấy với nàng, nhưng nói cho cùng thì chuyện gì xảy ra cũng đã xảy ra rồi, và tôi chẳng thể làm gì được nữa.

    Đó là một chiều tháng Năm đẹp trời. Sau bữa trưa, Kizuki gợi ý chúng tôi bỏ lớp để chơi bi-a hoặc đi đâu đó. Tôi cũng chẳng quan tâm gì đến những giờ học buổi chiều của mình, và thế là chúng tôi cùng ra khỏi trường, lững thững xuống đồi tới một phòng bi-a ngoài bến cảng và chơi bốn ván. Khi tôi thắng ván chơi thoải mái đầu tiên, Kizuki trở nên trang nghiêm và thắng liền ba ván tiếp theo. Có nghĩa là tôi phải trả tiền theo thông lệ vẫn có giữa chúng tôi. Kizuki không nói đùa câu nào khi chúng tôi chơi với nhau. Điều đó rất bất thường. Chơi xong chúng tôi hút thuốc.

    "Sao cậu nghiêm trang thế?" tôi hỏi.

    "Tớ không muốn bị thua hôm nay," Kizuki nói với một nụ cười thoả mãn.

    Cậu chết đêm hôm đó, trong nhà để xe. Cậu đã đưa một đường ống cao su từ miệng ống xả chiếc N-360 của mình vào một cửa sổ của chiếc xe, lấy băng dính bịt kín các chỗ hở, rồi nổ máy. Tôi không biết phải bao nhiêu lâu cậu mới chết được. Cha mẹ cậu đang đi thăm một người họ hàng bị ốm, và khi họ mở cửa vào thì cậu đã chết rồi. Radio trên xe vẫn kêu, và một cái hoá đơn mua xăng thì kẹp dưới một cần gạt nước ở kính xe.

    Kizuki không để lại một dòng tuyệt mệnh nào, và không ai có thể nghĩ ra lí do tự tử của cậu là gì. Vì là người cuối cùng đã gặp cậu nên tôi bị cảnh sát triệu lên hỏi. Tôi nói với viên sĩ quan điều tra rằng Kizuki đã không biểu lộ tí dấu hiệu nào của việc cậu sắp làm, rằng cậu đã vẫn hệt như mọi khi. Viên cảnh sát trước đây đã có ấn tượng không hay về cả Kizuki và tôi, như thể người ta hễ cứ hay bỏ học và chơi bi-a thì dĩ nhiên là sẽ có ngày tự tử vậy. Một bài báo ngắn đã kết thúc sự vụ. Cha mẹ Kizuki tống khứ chiếc N-360 màu đỏ của cậu đi. Trong một thời gian, chỗ bàn cậu vẫn ngồi trong lớp lúc nào cũng có một đoá hoa trắng.

    Trong khoảng mười tháng kể từ lúc Kizuki chết đến kỳ thi của tôi, tôi không biết mình đang ở đâu trong cái thế giới này. Tôi bắt đầu ngủ với một người trong đám hạn gái ở trường, nhưng quan hệ ấy chẳng được đến sáu tháng. Chẳng có gì ở cô ta can hệ được đến tôi. Tôi nộp đơn vào một trường đại học tư ở Tokyo, một loại trường mà tôi không phải học gì nhiều cũng thi vào được, và đỗ mà chẳng thấy vui mừng gì hết. Cô gái kia xin tôi đừng đi Tokyo - "Cách đây những năm trăm dặm!" Cô ta nài nỉ : nhưng tôi phải đi khỏi Kobe bằng bất cứ giá nào. Tôi muốn bắt đầu một cuộc sống mới ở một nơi mà tôi không biết một ma nào hết.

    "Anh không còn nghĩ gì đến tôi nữa, sau khi đã ngủ với tôi" cô ta vừa nói vừa khóc.

    "Không phải thế," tôi cương quyết. "Nhưng tôi nhất định phải đi khỏi thành phố này." Nhưng cô ta đã không chịu hiểu tôi. Và cứ thế chúng tôi giã biệt nhau.

    Khi ngồi trên tàu hoả cao tốc đi Tokyo, nhớ đến tất cả những gì đã làm cô hay hơn nhiều so với các cô gái khác ở nhà, tôi cảm thấy hành vi của mình thật kinh khủng, nhưng chẳng có cách gì gỡ lại được nữa. Tôi sẽ cố quên cô ta.

    Có một điều duy nhất mà tôi phải làm khi bắt đầu cuộc sống mới của mình trong khu học xá, đó là thôi không coi chuyện gì ở đời là quan trọng nữa, và thiết lập một khoảng cách thích hợp giữa bản thân với tất cả mọi chuyện. Hãy quên những chiếc bàn bi-a màu xanh nâu và những chiếc N-360 màu đỏ cùng những đoá hoa trắng trên bàn học; quên đám khói bốc lên từ những ống khói ngất ngưởng của lò thiêu xác, những cục chặn giấy kếch xù trong phòng hỏi cũng của cảnh sát. Lúc đầu việc đó có vẻ hiệu nghiệm. Tôi đã cố gắng để quên, nhưng bên trong tôi vẫn có một chút khí vón cục lại một cách mơ hồ. Và khi thời gian cứ trôi đi, cục khí vón ấy bắt đầu có hình hài rõ rệt và đơn giản, một hình hài mà tôi có thể ta được bằng lời, như sau:

    Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống, mà là một phần của cuộc sống.

    Nói ra như vậy nghe thật sáo mòn, nhưng đã có thời tôi cảm thấy cái hình hài ấy không phải bằng lời mà như một cục khí vón lại ở trong tôi. Cái chết là có thực - trong một cục chặn giấy, trong bốn trái bóng đỏ và trắng trên mặt bàn bi-a - và chúng ta tiếp tục sống và hít thở nó vào phổi như những làn bụi mịn.

    Trước đó, tôi đã hiểu cái chết như một cái gì hoàn toàn tách biệt và độc lập với sự sống. Bàn tay của sự chết nhất định sẽ túm lấy chúng ta, tôi cảm thấy thế, nhưng cho tới ngày nó tìm đến ta, nó vẫn để ta được yên thân. Điều đó dường như là một chân lý đơn giản và hợp logic đối với tôi. Sự sống ở đây, sự chết thì ở kia. Tôi đang còn ở đây, chưa phải ở đó.

    Tuy nhiên, đêm hôm Kizuki chết, tôi đã mất khả năng nhìn nhận sự chết (và sự sống) một cách giản dị như vậy/ Chết không phải là đối nghịch của sống. Nó đã đang ở đây rồi, ngay bên trong tôi, nó đã luôn luôn ở đây, và không có gì có thể cho phép tôi quên được điều đó. Khi nó lấy đi Kizuki mới mười bảy tuổi đầu trong cái đêm tháng Năm ấy, sự chết đã túm được cả tôi.

    Tôi sống qua mùa xuân sau đó, ở tuổi mười tám, với cục khí vón trong ngực mình, nhưng không lúc nào ngưng tranh đấu chống lại sự hồi sinh của thái độ coi trọng mọi sự ở đời. Coi trọng sự đời không phải là cách tiếp cận chân lý, tôi cảm thấy như vậy, cho dù vẫn mơ hồ. Nhưng sự chết là một thực tế, một thực tế nghiêm cẩn, dù ta có nhìn nhận nó kiểu gì đi nữa. Mắc kẹt trong mối mâu thuẫn nghẹt thở ấy, tôi lẩn quẩn trong một vòng tròn vô tận. Bây giờ nhìn lại, những ngày ấy thật lạ lùng. Ở đoạn giữa của cuộc đời, mọi thứ
    thay đổi nội dung bởi: sarujun, 06-01-2011 lúc 12:43 AM

  4. The Following User Says Thank You to bel_tigon For This Useful Post:

    feng (30-07-2009)

  5. #3
    Retired Mod
    Hải Phong's Avatar


    Thành Viên Thứ: 1265
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 267
    Thanks
    17
    Thanked 54 Times in 33 Posts
    bạn có thể post ngắn lại được k? Dài quá và khoảng thời gian giữa những lần post của bạn cũng ngắn quá, tớ nghĩ nên post ngắn lại để người đọc đỡ ngại vì đây là đọc online, và chỉ nên post 1 lần/ngày, nhiều cũng k phải là tốt bạn ah, người đọc chưa kịp đọc, nhìn thấy nhiều chữ quá lại bỏ qua đấy
    Tớ đọc truyện này rồi nhưng chưa xem phim. phim hay k bạn? Thường thi đọc truyện rồi tớ ít xem phim lắm vì phim k lột tả được nội tâm nv như truyện, nhất lại là tác phẩm của Murakami. Cảm ơn vì đã post truyện nhé
    Oh, giờ mới để ý, 2 nick khác nhau, không biết có phải cùng 1 người không ==!
    Chữ ký của Hải Phong
    Ngẫu hứng phố

    Nhớ Hà Nội

  6. #4
    Shokunin


    Thành Viên Thứ: 35767
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 47
    Thanks
    1
    Thanked 4 Times in 2 Posts
    Chương 3


    Dù sao, quan hệ của tôi với Naoko không phải là không tiến triển. Dần dà, nàng quen thuộc với tôi hơn, và tôi cũng vậy. Đến cuối hè và vào học kỳ mới, Naoko bắt đầu sánh vai cùng tôi như thể đó là một việc tự nhiên nhất trên đời. Nàng đã coi tôi là bạn rồi, tôi kết luận vậy và sánh bước cùng một cô gái đẹp như vậy hoàn toàn chẳng nặng nhọc gì đối với tôi. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi bộ khắp Tokyo theo một lộ trình ngoằn ngoèo, lên đồi, qua sông và những con đường tàu, cứ thế bước đi mà không hề nghĩ sẽ đến đích ở nơi nào. Chúng tôi cứ nhằm thẳng phía trước mà đi, như thề việc đi bộ là một nghi lễ tôn giáo sẽ chữa lành đôi linh hồn bị tổn thương của chúng tôi. Nếu trời mưa, chúng tôi dùng ô che, nhưng vẫn sẽ đi cho dù thế nào.

    Rồi mùa thu đến. Sân trong khu học xá phủ đầy lá zelkova. Hương thơm nhè nhẹ của buổi sang mùa đượm trong không gian khi tôi mặc lên người chiếc áo len đầu tiên. Sau khi đã đi mòn một đôi giày, tôi mua thêm hẳn vài đôi da lộn.

    Tôi vẫn không thể nhớ lại hai đứa đã nói với nhau những chuyện gì. Chẳng có gì đặc biệt, có lẽ vậy. Chúng tôi tiếp tục tránh không nhắc đến quá khứ và hiếm khi nói về Kizuki. Chúng tôi có thể đối diện nhau khi uống cà phê trong im lặng hoàn toàn.

    Naoko thích nghe tôi kể chuyện về Quốc-xã. Một lần hắn đi chơi với một sinh viên cùng lớp (một cô gái học dịa lý, tất nhiên rồi) nhưng còn sớm đã thấy về với bộ mặt ỉu xìu. "Này, W-W-Watanabe, với bọn con g-gơ-gơ gái thì cậu nói những chuyện gì?" Không nhớ là tôi đã trả lời hắn thế nào, nhưng rõ ràng là Quốc-xã đã chọn lầm người để hỏi chuyện đó. Hồi tháng Bảy, có kẻ trong khu học xá đã bỏ cái ảnh con kênh đào ở Amsterdam của Quốc-xã xuống và treo thay vào đó một bức ảnh chụp cây Cầu Cổng vàng. Hắn bảo tôi hắn muốn biết xem Quốc-xã có thủ dâm được với cái Cầu Cổng vàng hay không.

    "Nó sướng rơn," tôi báo cáo lại mấy hôm sau đó. Và thế là có kẻ lại thay vào đó một bức ảnh chụp núi băng trôi ngoài biển. Mỗi lần bị thay ảnh như thế, Quốc-xã đều khó chịu.

    "Đứ đứ đứa nào làm cái trò này thế?" hắn hỏi.

    "Tớ cũng đang thắc mắc đây," tôi đáp. "Nhưng có sao đâu? Đều là ảnh đẹp cả. Cậu phải biết ơn mới phải."

    "Ờ tớ cũng nghĩ thế, nhưng cũng kì thật."

    Những mẩu chuyện của tôi về Quốc-xã lúc nào cũng làm cho Naoko phì cười. Không dễ gì làm được chuyện đó, nên tôi thường xuyên nói đến hắn, mặc dù không mấy tự hào vì đã dùng hắn vào việc ấy. Quốc-xã chỉ là đứa con trai út trong một gia đình chẳng giàu có gì và tình cờ lớn lên với thái độ quá coi trọng việc tu dưỡng bản thân của chính mình. Làm bản đồ là một mơ ước nhỏ nhoi của cuộc đời nhỏ nhoi của hắn. Ai có quyền gì đem hắn ra làm trò cười như vậy?

    Thế nhưng đến lúc ấy thì những mẩu chuyện đùa bỡn về Quốc-xã đã trở thành nguồn đề tài tán dóc trong khu học xá, và chẳng cách gì để tôi có thể cứu vãn được chuyện đó. Ngoài ra, hình ảnh gương mặt mỉm cười của Naoko đã trở thành nguồn khoái lạc đặc biệt của tôi. Và tôi tiếp tục cũng cấp cho thiên hạ những mẩu chuyện mới.

    Một lần Naoko đã hỏi tôi, chỉ một lần thôi, rằng tôi đã có cô gái nào ưa thích chưa. Tôi kể cho nàng nghe về cô gái tôi đã bỏ lại ở Kobe. "Cô ta tốt," tôi nói, "mình thích ngủ với cô ta, và đôi lúc vẫn còn nhớ cô ta, nhưng nói cho cùng thì cô ta không làm mình xúc động. Mình không biết, đôi khi mình nghĩ trong lòng mình có một cái nhân cứng ở đây này, và không gì có thể thâm nhập nó. Có lẽ mình không thể thực sự yêu ai."

    "Thế cậu đã từng yêu chưa? Naoko hỏi.

    "Chưa bao giờ," tôi đáp.

    Và nàng không hỏi thêm nữa.

    Khi mùa thu đã tàn và những cơn gió lạnh bắt đầu tràn về qua thành phố, Naoko sẽ thường nép chặt vào cánh tay tôi. Tôi có thể cảm thấy hơi thở của nàng qua lần vải dày của chiếc áo khoác nàng mặc. Nàng sẽ khoác chặt lấy tay tôi, hoặc thọc tay vào túi áo tôi, hoặc nếu trời thật lạnh thì nàng run rẩy bám chặt lấy cánh tay tôi.

    Những cái đó chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Tôi vẫn tiếp tục bước, hai tay đút túi. Giày có đế cao-su của chúng tôi không gây tiếng động nào trên mặt vỉa hè, trừ những tiếng lạo xạo khô khốc mỗi khi chúng tôi giẫm phải những đám lá khô héo trên đường. Mỗi khi nghe tiếng động ấy, tôi thương cảm cho Naoko lắm. Cánh tay tôi không phải là cánh tay nàng cần, mà là tay người khác kia. Hơi ấm của tôi không phải là cái nàng cần, mà là hơi ấm của người khác kia. Tôi thấy gần như có tội vì đã là chính mình.

    Càng vào sâu mùa đông, cái vẻ trong vắt của đôi mắt Naoko hình như cũng rõ ràng mãi lên. Đó là một thứ rõ ràng không biết sẽ dẫn tới đâu. Đôi khi Naoko khoá chặt tia nhìn của nàng vào mắt tôi mà không có lí do gì rõ rệt. Hình như nàng đang tìm kiếm một cái gì, và điều đó khiến tôi tràn ngập một cầm giác vô vọng và cô đơn kì lạ.

    Tôi tự hỏi có phải là nàng đang cố truyền đạt một điều gì đó cho tôi, một điều gì đó mà nàng không thể nói nên lời - một điều gì đó có trước cả ngôn từ mà nàng không thể nắm bắt và do đó không thể hy vọng sẽ biến nó thành lời. Và thế là nàng sẽ nghịch cái dải buộc tóc, chấm chấm chiếc khăn tay lên miệng, hoặc nhìn vào mắt tôi với một vẻ vô nghĩa như thế. Tôi những muốn ôm chặt lấy nàng những lúc ấy, nhưng lại do dự và khựng lại. Tôi sợ mình sẽ làm nàng đau đớn. Và thế là hai chúng tôi cứ đi mãi trên những con phố Tokyo, trong khi Naoko cứ tìm kiếm lời lẽ trong không gian trống vắng.

    Tụi con trai trong khu học xá luôn trêu chọc tôi mỗi khi tôi nhận điện thoại của Naoko hoặc ra đi vào một sáng Chủ nhật. Chúng đồ rằng, mà cũng tự nhiên thôi, tôi đã có bồ. Không thể giải thích sự thật cho chúng, và cũng chẳng cần phải thế, nên tôi để mặc cho chúng muốn nghĩ sao thì nghĩ. Tối về tôi phải chịu trận với hàng loạt các câu hỏi tọc mạch của chúng: Bọn tôi đã thử những động tác gì? Chỗ ấy của con bé nó ra sao? Đồ lót của nó hôm ấy màu gì? Chúng muốn nghe gì thì tôi trả lời theo thế.

    Cứ như thế, tôi đi từ tuổi mười tám sang tuổi mười chín. Ngày nào mặt trời cũng mọc lên rồi lặn xuống, lá cờ cũng được kéo lên rồi hạ xuống. Chủ nhật nào tôi cũng đi chơi với cô gái của đứa bạn quá cố. Tôi không biết mình đang làm gì hoặc sẽ làm gì. Ở lớp thì tôi đọc Claudel và Racine và Eisenstein, nhưng họ hầu như chẳng có nghĩa lý gì với tôi. Ở lớp không đánh bạn với ai, và cũng hầu như chẳng quen ai trong khu học xá. Mọi người tưởng tôi muốn trở thành nhà văn vì lúc nào tôi cũng chỉ một mình với một cuốn sách, nhưng tôi đâu có tham vọng ấy. Tôi chẳng muốn thành một cái gì cả.

    Tôi định nói về cảm giác ấy với Naoko. Ít ra thì nàng cũng có thể hiểu được tôi đang cảm thấy gì với một mửc độ chính xác nào đó, tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi không bao giờ tìm được từ để diễn đạt mình. Lạ thật. Có vẻ như tôi đã lây căn bệnh thiếu lời của nàng.

    Những tối thứ Bảy, tôi sẽ ngồi cạnh máy điện thoại ở dưới sảnh, đợi cú gọi của Naoko. Hầu hết mọi người đều đi cả nên sảnh nhà thường vắng teo. Tôi sẽ nhìn chăm chú những hạt sáng lửng lơ trong cái không gian im lìm ấy, cố sức nhìn vào chính cõi lòng mình. Tôi muốn gì? Và những người khác muốn gì ở tôi? Nhưng chẳng bao giờ tôi tìm được lời đáp. Đôi khi tôi sẽ đưa tay ra cố bắt lấy những hạt sáng kia, nhưng ngón tay tôi chẳng chạm thấy cái gì hết.

    Tôi đọc nhiều, nhưng không nhiều sách khác nhau. Tôi thích đọc đi đọc lại những tác giả mà mình ưa thích nhất. Hồi đó là Truman Capote, John Updike, E Scott Fiagerald, Raymond Chandler, nhưng tôi không thấy có ai ở lớp hoặc trong khu học xá cũng đọc những tác giả ấy. Họ thích Kazumi Takahashi, Kenzaburo Oe, Yukio Mishima, hoặc những tiếu thuyết gia đương đại Pháp. Đó cũng là lí do tại sao tôi chẳng có gì nhiều để chuyện trò với ai mà chỉ lui thui với những cuốn sách của mình. Tôi thường nhắm nghiền mắt lại, chạm tay vào một cuốn sảch quen thuộc rồi rút lấy hương vị của nó vào sâu thẳm lòng mình. Thế là đủ để tôi hạnh phúc.

    Tuổi mườì tám, cuốn sách yêu thích nhất của tôi là cuốn Nhân mã của John Updike, nhưng sau khi đã đọc nó một số lần, nó bắt đầu mất dần ánh hào quang ban đầu và phải nhường ngôi trên ấy cho cuốn Gatsby vĩ đại. Gatsby ở ngôi ấy một thời dài sau đó. Tôi thường rút nó ra khỏi giá sách mỗi lúc hứng chí và đọc một đoạn bất kì. Chưa bao giờ nó làm tôi thất vọng. Không có một trang buồn tẻ nào trong cuốn sách ấy. Tôi muốn nói cho mọi người biết rằng đó là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, nhưng xung quanh tôi chưa có ai đã từng đọc Gatsby vĩ đại hoặc có ý muốn đọc nó. Mà giới thiệu và khuyến khích người khác đọc E Scott Fitzgerald, mặc dù không phải là một hành vi phản động, thật sự là một việc không thể làm được hồi 1968.

    Khi cuối cùng gặp được một người trong thế giới của tôi đã từng đọc Gatsby vĩ đại, chúng tôi lập tức thành bạn của nhau. Tên hắn là Nagasawa. Hắn hơn tôi hai tuổi và, vì đang học luật tại Đại học Tokyo danh tiếng, hắn đã thuộc loại được đặc tuyển để sẽ gia nhập hàng ngủ lãnh đạo quốc gia. Chúng tôi ở cùng trong khu học xá và chỉ mới biết mặt nhau, cho đến một hôm tôi ngồi đọc Gatsby vĩ đại ở một chỗ sáng trong nhà ăn. Hắn ngồi xuống cạnh tôi và hỏi tôi đang đọc gì. Tôi bảo hắn, và hắn hỏi tôi có thích cuốn sách không. "Tôi đang đọc nó lần này là lần thứ ba" tôi đáp, "và lần nào cũng thấy có cái gì đó mới mẻ thích thú hơn lần trước."

    "Người này nói hắn đã đọc Gatsby vĩ đại ba lần," hắn nói như thể độc thoại. "Hãy nghe đây, bất kì người bạn nào của Gatsby vĩ đại cũng là bạn của tôi."

    Và thế là chúng tôi thành bạn. Chuyện đó diễn ra hồi tháng Mười.

    Càng biết thêm về Nagasawa, hắn càng có vẻ lạ lùng hơn. Trong đời tôi đã gặp khối kẻ lạ lùng, nhưng không ai lạ bằng Nagasawa. Hắn mọt sách hơn tôi rất nhiều, nhưng hắn có lệ không bao giờ động đến một cuốn sách nếu tác giả của nó chết chưa được ba mươi năm. "Chỉ có sách loại ấy tớ mới tin được," hắn nói.

    "Không phải tớ không tin vào văn học đương đại," hắn nói thêm, "nhưng tớ không muốn phí ngày giờ quý báu để đọc những thứ chưa được thời gian chấp nhận. Đời ngắn lắm."

    "Cậu thích những tác giả kiểu gì?" tôi hỏi ngưởi trên mình hai tuổi bằng giọng cung kính.

    "Balzac, Dante, Joseph Conrad, Dickens," hắn đáp liền.

    "Không được thời thượng cho lắm."

    "Chính thế nên tớ mới đọc họ. Nếu đọc những sách mọi người đều đang đọc, cậu sẽ chỉ nghĩ nhưng gì mọi người đang nghĩ mà thôi. Đó là thế giới của bọn cà tầm và rởm đời. Người chân chính sẽ rất xấu hổ nếu phải làm như vậy. Cậu không thấy thế sao hở Watanabe? Cậu với tớ là những con người đích thực duy nhất trong cái khu học xá này. Những thằng khác đều là đồ bỏ đi hết."

    Tôi thật sự choáng. "Sao cậu có thể nói như vậy được?"

    "Vì đó là sự thật. Tớ biết. Tớ có thể thấy rõ điều đó. Giống như chúng ta có dấu hiệu đặc biệt ở trên trán vậy. Và ngoài ra, cả hai ta đều đọc Gatsby vĩ đại."

    Tôi tính nhẩm thật nhanh. "Nhưng Fitzgerald mới chết được hai mươi tám năm," tôi nói.

    "Thì đã sao? Hai năm ư? Với Fitzgerald thì tính thêm lên thế được rồi."

    Không có ai khác trong khu học xá biết chuyện Nagasawa là một độc giả bí mật của tiểu thuyết cổ điển, mà nếu họ có biết cũng chẳng làm sao. Nagasawa nổi tiếng thông minh. Hắn đỗ vào Đại học Tokyo như đi chơi, hắn được toàn điểm tốt, hắn sẽ thi hành chính quốc gia, vào Bộ Ngoại giao và trở thành một chính khách. Gia đình hắn giàu có. Cha hắn là chủ một bệnh viện lớn ở Nagoya, anh hắn cũng đã tốt nghiệp ở Tokyo, theo học y khoa, và một ngày nào đó sẽ thừa hưởng cái bệnh viện.

    Nagasawa lúc nào cũng có đầy tiền trong túi, và hắn cư xử rất đường hoàng đĩnh đạc. Mọi người đều tôn trọng hắn, ngay cả ông giám đốc khu học xá. Khi hắn nhờ ai làm việc gì, người ấy sẽ cũng cúc làm ngay. Chuyện ấy không có lựa chọn nào khác.



    Khi tôi bảo hắn tôi mới chỉ ngủ với một cô gái, hắn nói:

    "Ôi dào, mình sẽ điều chỉnh việc đó, dễ mà. Lần sau cậu đi với tớ. Tớ sẽ kiếm ngay một đứa cho cậu, dễ lắm."

    Tôi không tin hắn, nhưng hoá ra hắn nói đúng. Dễ thật. Hình như còn hơi dễ quá, khi đã lên men với những cốc bia đã hả. Chúng tôi đến một chỗ như là một quầy bar ở Shibuya hoặc Shinjuku gì đó (hắn có những địa điểm ưa thích riêng), thấy một cặp bạn gái (thế giới đầy những cặp bạn gái), nói chuyện với chúng, uống, về một khách sạn, và làm tình với chúng. Hắn tán chuyện cực giỏi. Không phải là hắn có những chuyện hay ho gì, mà là bọn con gái hễ cứ nghe tiếng hắn nói là mê tơi, rồi uống rõ nhiều, và cuối cùng thì ngủ với hắn. Tôi đoán chúng thích được ở bên cạnh một người hay như vậy, đẹp trai và thông minh như vậy. Và điều đáng kinh ngạc nhất là, chỉ vì tôi đi cùng với hắn, tôi có vẻ cũng trở nên hấp dẫn hệt như hắn. Nagasawa thường giục tôi tán chuyện đi, và bọn con gái sẽ quay sang tôi với những nụ cười khâm phục hệt như đối với hắn. Hắn sử dụng phép thuật của mình, một tài năng thực sự vẫn luôn gây ấn tượng với tôi. So với Nagasawa, tài nói chuyện của Kizuki chỉ là trò trẻ con. Đây hoàn toàn là một đẳng cấp khác. Ấy thế mà dù có thấy mình bị quyền phép của Nagasawa chi phối đến mấy, tôi vẫn nhớ tiếc Kizuki. Tôi có một cảm xúc khâm phục mới mẻ đối với tính trung thực của Kizuki. Cậu chỉ chia sẻ tất cả tài năng của mình cho tôi và Naoko, trong khi Nagasawa lại thích phân phát những món quà quý giá của hắn cho tất cả mọi người xung quanh. Không phải vì hắn thèm được ngủ với những cô gái hắn tìm thấy, mà đó chỉ là một trò chơi với hắn vậy.

    Tôi không quá máu mê trong chuyện ngủ với những cô gái không quen biết. Dĩ nhiên đó là cách giải toả bức xúc xác thịt của tôi, và tôi cũng thích tất cả những trò ôm ấp đụng chạm kia, nhưng tôi ghét những buổi sáng hôm sau thậm tệ. Tôi sẽ thức giấc và thấy cô gái lạ ấy nằm ngủ ngay cạnh mình, gian phòng thì sặc mùi rượu, còn cái giường cùng với đèn đóm và rèm cửa thì đều lòe loẹt chướng mắt theo kiểu các "khách sạn tình yêu" và đầu tôi thì mụ mị như trong sương mù sau một đêm bí tỉ. Thế rồi cô gái sẽ thức giấc và bắt đầu mò mẫm xung quanh tìm những đồ bà rằn của mình và trong khi xổ bít-tất cô ta sẽ nói những câu đại loại như, "Em hy vọng đêm qua anh có dùng cái ấy. Tháng này thì đây là ngày tệ nhất của em đấy." Rồi cô ta sẽ ngồi xuống trước gương và bắt đầu lầu bầu về cơn nhức đầu hoặc về sự lủng củng của các món đồ trang điểm trong lúc tô lại môi hoặc dính lại hàng mì giả. Tôi vẫn thích không phải ở cả đêm với họ, nhưng ta không thể lo đối phó với lệnh cấm trại ban đêm của khu học xá trong khi đi ve gái (dù sao thì nó cũng trái với các quy luật vật lý), Và bao giờ tôi cũng phải mang theo giấy thông hành qua đêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ phải ở lại bên ngoài cho đến sáng và trở về khu học xá với đầy những thất vọng và ghê tởm bản thân trong khi nắng sáng như dao đâm vào mắt, mồm miệng khô như ngậm cát, còn đầu óc thì như của ai khác vậy.

    Khi đã ngủ với ba hoặc bốn cô gái theo kiều ấy, tôi hỏi Nagasawa, "Sau khi cậu đã làm chuyện này bảy mươi lần, nó có bắt đầu trở nên vô nghĩa không?"

    "Điều đó chứng tỏ cậu là một người đàng hoàng tử tế", hắn nói. "Xin chúc mừng. Dứt khoát là chẳng được gì hết khi ta ngủ với hết đàn bà lạ này sang đàn bà lạ khác. Nó chỉ làm ta kiệt sức và khiến ta ghê tởm chính mình. Với tớ cũng thế thôi."

    "Vậy thì vì lí do quái gì mà cậu cứ tiếp tục như thế?"

    "Khó nói thật. Mà này, chắc cậu đã biết Dostoyevski viết gì về cờ bạc rồi chứ? Nó như vậy đấy. Khi ta bị vây quanh bởi vô vàn những cơ may, việc khó làm nhất là để tuột mất chúng. Hiểu điều tớ nói không?"

    "Vậy vậy thôi."

    "Nghe đây. Mặt trời lặn xuống. Bọn con gái ra ngoài và uống rượu. Chúng lang thang xung quanh và tìm kiếm cái gì đó. Tớ có thể cho chúng cái đó. Đó là việc dễ dàng nhất thế giới, như uống nước vặn ở vòi ra vậy. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì tớ đã đè chúng ra rồi. Đó là cái chúng mong đợi. Đó là cái mà tớ gọi là cơ may. Nó đầy rẫy xung quanh. Làm sao có thể phớt lờ nó được? Ta có khả năng và cơ hội để tận dụng nó. Cậu có thể cứ ngậm miệng và để nó tuột mất chăng?

    "Tớ không biết, tớ chưa bao giờ ở trong một tình huống như thế," tôi nói vớỉ một nụ cười. "Tớ không thể tưởng tượng nó ra làm sao."

    "Thật may mắn cho cậu," Nagasawa nói.

    Máu ham gái là lí do Nagasawa sống trong khu học xá mặc dù gia đình hắn rất giàu có. Sợ rằng Nagasawa sẽ không làm một việc gì khác khi sống một mình ở

    Tokyo, cha hắn đã buộc hắn phải sống cả bốn năm đại học trong khu học xá. Chuyện đó cũng chẳng nhằm nhò gì lắm với Nagasawa. Hắn chẳng chịu để một vài điều kỷ luật quấy rầy đến mình. Hễ khi nào thích, hắn sẽ lấy một thông hành qua đêm và đi săn gái hoặc ngủ lại ở căn hộ cô bồ của hắn. Những giấy thông hành này lấy được cũng không dễ gì, nhưng với hắn thì chúng cứ như giấy cho không - cả với tôi nữa cũng thế, nếu hắn là người đứng ra xin.

    Nagasawa cũng có một cô bồ bền chặt mà hắn đã cặp ngay từ năm thứ nhất. Tên cô ta là Hatsumi, và cô cùng tuổi với Nagasawa. Tôi đã gặp cô vài lần và thấy cô rất hay. Cô ta không có cái vẻ ngoài nhìn một cái là thấy hấp dẫn ngay, và quả thực cô bình thường đến mức khi gặp lần đầu tôi đã phải tự hỏi tại sao Nagasawa không tìm một ai xinh đẹp hơn, nhưng hễ ai đã có dịp chuyện trò với cô cũng đều lập tức thích cô ngay. Ít nói, thông minh, dí dỏm, biết quan tâm đến người khác, lúc nào cô cũng ăn vận với một thị hiểu không thể chê vào đâu được. Tôi thích cô ghê lắm và biết rằng nếu tôi có thể có được một bạn gái như Hatsumi, tôi sẽ không lang chạ với đám gái linh tinh lang tang kia làm gì. Cô cũng thích tôi, và đã cố sức gán ghép tôi với một cô bạn năm thứ nhất trong cùng câu lạc hộ với cô để cả bốn đứa có thể cùng đi chơi với nhau, nhưng tôi thường bịa lí do để tránh lặp lại những sai lầm trong quá khứ. Hatsumi học ở một đại học nữ cao giá nhất nước, và không có cách gì để tôi có thể chuyện trò được với một trong những nữ chúa siêu giàu có ấy.

    Hatsumi biết thừa là Nagasawa lang chạ lung tung, nhưng cô không bao giờ ca thán gì với hắn. Cô thực sự yêu nhưng không bao giờ đòi hỏi.

    "Tớ không xứng với một cô gái như Hatsumi," Nagasawa có lần nói với tôi. Tôi phải đồng tình với hắn thôi.

    Mùa đông ấy tôi kiếm được một việc làm thêm trong một tiệm bán đĩa nhạc ở Shinjuku. Tiền chẳng được mấy, nhưng công việc dễ dàng - chỉ có canh chừng cửa hàng ba đêm một tuần - và họ cho tôi được mua đĩa giá rẻ. Dịp Giáng sinh tôi mua cho Naoko một bộ đĩa Henry Mancini trong đó có bài "Trái tim Yêu dấu ưa thích của nàng. Tôi tự tay gói ghém món quà, đính cả một dải ruy-băng đỏ rực. Nàng tặng tôi một đôi găng tay len nàng đan. Ngón cái hơi bị ngắn, nhưng chúng giữ đôi bàn tay tôi ấm áp.

    "Ôi chao, xin lỗi nhé," nàng nói, mặt ửng đỏ, "Mình đan kém quá!"

    "Có sao đâu, chúng rất vừa mà," tôi nói, giơ cả hai bàn tay đi găng ra cho nàng.

    "Cũng được, ít nhất thì cậu cũng không phải hai tay đút túi quần mãi nữa, phải không nào?"

    Naoko không về nhà ở Kobe kỳ nghỉ đông ấy. Tôi cũng ở lại Tokyo, làm việc ở tiệm đĩa nhạc cho đến tận cuối năm. Tôi chẳng có gì đặc biệt vui vẻ để làm ở Kobe, cũng chẳng có ai tôi muốn gặp ở đó. Nhà ăn khu học xá đóng cửa trong kỳ nghỉ, và tôi đến ăn cơm ở căn hộ của Naoko. Đêm Giao thừa, hai đứa ăn bánh gạo và súp như tất cả mọi người.

    "Mình còn bảy tháng nữa để sẵn sàng," tôi nói và cười vang.

    "Cậu thật may mắn! Vẫn mười chín tuổi!" Naoko nói hơi có giọng ganh tị.

    Trong lúc ăn tôi kể cho nàng về cái áo len cộc tay mới của Quốc-xã. Từ trước hắn vẫn chỉ có độc một cái màu xanh thuỷ quân, nên bây giờ có cái thứ hai là cả một chuyển biến lớn. Bản thân cái áo thì cũng hay, màu đỏ và đen, đan có trang trí hình con hươu, nhưng mặc vào người hắn thì ai thấy cũng phải phì cười. Hắn không hiểu ra làm sao cả.

    "C cơ cai-cái gì mà họ cười thế hả, Watanabe?" hắn hỏi, ngồi xuống cạnh tôi trong nhà ăn. "Có cái gì dính trên trán tớ à?"

    "Có gì đâu," tôi nói, cố giữ vẻ mặt bình thường.

    "Có gì buồn cười đâu. Cái áo len đẹp đấy."

    "Cảm ơn," hắn nói, mặt rạng rỡ.

    Naoko thích chuyện ấy quá. "Mình phải gặp anh chàng đó mới được," nàng bảo. "Chỉ một lần thôi."

    "Không thể được," tôi nói. "Cậu sẽ phì cười vào mặt hắn thôi."

    "Cậu nghĩ thế à?"

    "Mình cuộc là vậy. Ngày nào mình cũng thấy hắn và nhiều khi vẫn không thể nhịn được cười."

    Chúng tôi dọn bàn rồi ngồi xuống sàn, nghe nhạc và uống nốt chỗ rượu vang. Khi tôi uống hết một cốc thì nàng đã cạn hết hai.

    Đêm ấy Naoko nói nhiều khác thường. Nàng kể cho tôi về thời thơ ấu của nàng, trường học và gia đình nàng. Chuyện nào cũng dài, mà kể thật tỉ mỉ chi tiết như một bức tiểu hoạ. Tôi kinh ngạc thấy kí ức nàng mạnh đến vậy, nhưng khi ngồi lắng nghe nàng, tôi bỗng chợt thấy có cái gì đó không ổn trong lối kể chuyện của nàng, một cái gì đó lạ lùng, thậm chí méo mó. Mỗi câu chuyện đều có cái logic riêng của nó, nhưng mối liên hệ của chúng với nhau thì lại bất thường. Chưa kịp nghe thủng thì chuyện A đã nhập vào với chuyện B, vốn đã có ở A rồi, và sau đó thì chuyện C lại xuất hiện từ cái gì đó ở chuyện B, cứ thế không bao giờ dứt. Lúc đầu tôi còn cố tìm cách đối đáp, nhưng một lúc sau thì chịu chết. Tôi đặt một đĩa hát lên máy và khi hết thì nhấc kim ra và thay một đĩa khác vào đó. Chạy hết đã cuối cùng thì tôi quay lại đĩa đầu tiên. Nàng chỉ có sáu đĩa tất cả. Chu kỳ âm nhạc bắt đầu bằng bài Băng nhạc câu lạc bộ những trái tim cô đơn của Sgt. Pepper và kết thúc bằng bản Điệu Van-xơ cho Debbie của Bill Evan. Mưa cứ rơi ngoài cửa sổ.

    Thời gian chầm chậm trôi. Naoko tiếp tục nói chuyện một mình.

    Cuối cùng thì tôi đã hiểu ra cái gì không ổn: Naoko đang hết sức cảnh giác không động đến một số điều gì đó trong khi nàng kể chuyện. Một là Kizuki, tất nhiên rồi, nhưng còn hơn thế nữa. Và mặc dù đã có một số chủ đề nàng cương quyết lảng tránh, Naoko vẫn cứ nói mãi và tỉ mẩn không thể tưởng tượng được về những thứ linh tinh vụn vặt và tầm thường nhất. Tôi chưa bao giờ nghe nàng nói hùng hồn đến thế nên không dám ngắt lời.

    Khi đồng hồ điểm mười một giờ thì tôi bắt đầu thấy bồn chồn. Naoko đã nói liền tù tì hơn bốn tiếng rồi. Tôi cần phải lo đến chuyến tàu cuối cùng của mình cũng như lệnh giới nghiêm nửa đêm của khu học xá. Tôi chộp lấy một cơ hội và cắt lời nàng.

    "Đã đến lúc lính tráng phải về," tôi nói, mắt nhìn đồng hồ đeo tay. "Sắp đến chuyến tàu cuối rồi."

    Lời tôi nói có vẻ không đến được tới nàng. Hoặc nếu được thì nàng đã không thể hiểu chúng có nghĩa gì.

    Nàng ngậm chặt miệng chưa đến một giây, rồi lại tiếp tục nỏi. Tôi đầu hàng, sửa lại tư thế ngồi cho thoải mái hơn và uống nốt chỗ vang còn lại của cái chai thứ hai. Tôi nghĩ cứ nên mặc nàng nói cho hả thì thôi. Lệnh giới nghiêm và chuyến tàu cuối cùng sẽ phải tự chúng giải quyết với nhau.

    Nhưng nàng cũng không tiếp tục lâu nữa. Khi tôi để ý thì nàng đã ngừng rồi. Phần cuối tơi tả của lời nàng dường như đang bồng bềnh trong không gian, nơi chúng đã bị bóc xuống từ nãy đến giờ. Nàng không thực sự kết thúc những gì đang nói. Chỉ đơn giản là lời nàng đã biến thành không khí hết cả. Nàng vẫn muốn tiếp tục, nhưng chẳng còn gì ở đó nữa. Một cái gì đó vừa biến mất, và có thể tôi đã là kẻ gây ra điều tàn hại ấy. Lời tôi nói có thể cuổi cùng đã đến được tới nàng, chờ ở đó để được nàng hiểu, và tiêu diệt hết phần năng lượng đã khiến nàng nói chuyện được lâu đến thế. Đôi môi hơi hé mở, nàng quay cặp mắt chưa biết nhìn vào đâu về phía tôi. Trông nàng giống như một cỗ máy đang chạy đều thì bị người rút mất điện. Mắt nàng có vẻ mờ mịt, như bị một thứ màng mỏng và trong veo kéo qua che kín.

    "Mình xin lỗi đã ngắt lời cậu," tôi nói, "nhưng đã muộn rồi, và…"

    Một giọt lệ lớn từ mắt nàng tràn ra, trôi xuống má và rơi xuống một cái vỏ đĩa hát. Sau giọt đầu tiên ấy, nước mắt nàng trào ra như suối. Naoko gập người bò xuống nền nhà, úp cả bàn tay xuống chiếu và bắt đầu kêu khóc quằn quại như một người đang nôn thốc nôn tháo vậy.

    Trong đời tôi chưa bao giờ thấy có ai khóc dữ dội như thế. Tôi vươn tới và đặt một bàn tay lên bờ vai đang rung bần bật của nàng. Thế rồi, hoàn toàn chỉ là bản năng, tôi ôm nàng vào lòng. Nép chặt vào tôi, toàn bộ thân thể nàng run lên, và nàng tiếp tục khóc không ra tiếng. Sơ-mi tôi ướt đẫm, sũng nước mắt nàng và hơi thở nóng hổi của nàng. Chẳng mấy chốc những ngón tay nàng bắt đầu chạy khắp qua lưng tôi như thể tìm kiếm một thứ gì, một thứ gì đó quan trọng vẫn luôn ở đó. Đỡ nàng bằng tay, tôi dùng tay phải vuốt ve mái tóc thẳng và mềm mại của nàng. Và tôi chờ đợi. Trong tư thế ấy, tôi chờ đợi cho Naoko nín khóc. Và tôi cứ đợi như thế mãi. Nhưng Naoko chẳng bao giờ ngừng khóc.

    Đêm đó tôi đã ngủ với Naoko. Làm vậy có phải không ư? Tôi không biết nữa. Ngay cả bây giờ, gần hai mươi năm đã qua, tôi vẫn không biết chắc. Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ biết. Nhưng lúc bấy giờ, tôi chỉ có thể làm được có vậy mà thôi. Nàng đang trong tình trạng căng thẳng và rối trí cao độ, và nàng nói rõ rằng nàng muốn tôi giải toả cho nàng. Tôi hạ bớt ánh sáng đèn và bắt đầu cởi bỏ quần áo nàng, từng thứ một, với những động chạm nhẹ nhàng nhất. Rồi tôi cởi quần áo mình. Trời đủ ấm, cái đêm mưa tháng Tư ấy, để chúng tôi có thể bám chặt lấy sự trần trụi của nhau mà không thấy lạnh lẽo.

    Chúng tôi khám phá thân thể nhau trong bóng tối, không nói một lời. Tôi hôn nàng và nâng đôi vú mịn màng của nàng trong tay. Nàng siết chặt lấy sự cương cứng của tôi. Châu thân nàng mở ra nóng âm, ướt át và mong ngóng tôi.

    Mình đã quyết định nghỉ học một năm. Chính thức thì là nghỉ, nhưng có lẽ mình sẽ không bao giờ quay lại nữa. Chuyện này có thể làm cậu ngạc nhiên, nhưng thực ra mình đã nghĩ đến nó từ rất lâu rồi. Đã có một vài lần mình cố nói cho cậu biết, nhưng không biết mở đầu cách nào. Mình sợ cả việc phát phát âm ra. Hay cố đừng để mọi thứ làm mình căng thẳng.

    Cho dù có chuyện gì đi nữa, hoặc chẳng có chuyện gì đi nữa, thì kết cục cũng như nhau cả thôi. Nói thế này có lẽ không phải là cách tốt nhất, nhưng xin lỗi đã làm cậu phải đau đớn. Điều mình đang cố nói với cậu là: mình không muốn cậu đổ lỗi cho bản thân vì những gì đã xảy đến với mình. Đó là chuyện mình phải tự quyết định lấy. Mình đã trì hoãn nó trong hơn một năm, và cuối cùng thì lại làm khó cho cậu. Có lẽ không thể trì hoãn thêm được nữa.

    Sau khi dọn đi, mình về nhà ở Kobe và đi bác sĩ một thời gian. Ông ta bảo có một chỗ trên vùng núi bên ngoài Kyoto có thể là hoàn hảo cho mình, và mình đang nghĩ sẽ lên đó một thời gian ngắn xem sao.

    Đó không hẳn là một bệnh viện, mà giống một khu an dưỡng và cách điều trị cũng phóng khoáng hơn nhiều. Thư sau mình sẽ kể chi tiết hơn. Cái mình cần bây giờ là để cho thần kinh được nghĩ ngơi ở một nơi yên tĩnh cách biệt hẳn với thế giới.

    Mình biết ơn cậu, theo cách riêng của mình, vì đã dành cho mình cả một năm trời. Cậu làm ơn hãy tin mình chuyện này nếu như cậu không tin gì khác.

    Cậu không phải là người làm cho mình đau khổ. Chính mình là người làm chuyện đó. Mình thực sự cảm thấy thế.

    Dù sao, bây giờ mình vẫn chưa sẵn sàng để gặp cậu đâu. Không phải mình không muốn gặp cậu. Chỉ đơn giản là mình chưa thể. Khi nào có thể, mình sẽ viết cho cậu. Như lời cậu nói, đây có lẽ là việc chúng ta nên làm: hãy tìm cách hiểu nhau hơn.

    Tạm biệt."

    Tôi đọc đi đọc lại lá thư của Naoko, và lần nào cũng thấy mình chìm ngập trong cùng một nỗi buồn không thể chịu đựng nổi mà tôi vẫn cảm thấy mỗi khi Naoko chăm chú nhìn vào mắt mình. Tôi không có cách gì đương đầu với nỗi buồn ấy, không biết đem nó đi đâu, giấu nó vào đâu. Giống như gió thổi qua thân xác tôi, nó không có hình thù, cũng không có sức nặng, và tôi cũng không thể quấn nó quanh mình. Những vật thể trong cảnh trí ấy sẽ bồng bềnh trôi qua ngay bên tôi, nhưng lời chúng nói không bao giờ đến được tai tôi

    Sao chương này nó dài thế nhỉ

  7. The Following User Says Thank You to minhthang6 For This Useful Post:

    feng (30-07-2009)

  8. #5
    Shokunin


    Thành Viên Thứ: 36824
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 25
    Thanks
    0
    Thanked 6 Times in 1 Post
    Cảm ơn bạn Minhthang rất nhiều vì đã post một truyện tiểu thuyết nổi tiếng . Mình đã nghe qua nội dung lẫn cốt truyện nhưng chưa lần nào được đọc hết cả . Tuy nhiên để theo dõi được hết câu truyện trên diễn đàn thì thật là khó quá , bạn có thể post link để cho mọi người có thể down về và đọc dần được ko ?

  9. #6
    Retired Mod
    Hải Phong's Avatar


    Thành Viên Thứ: 1265
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 267
    Thanks
    17
    Thanked 54 Times in 33 Posts
    Hic dài quá bạn ơi, chương nào dài quá bạn chia nửa ra post cũng đc bạn ah ==. Bạn vẫn post tiếp truyện (để góp thêm truyện vào tủ sách của diễn đàn ý mà) nhưng mà để thêm link down được k?
    Chữ ký của Hải Phong
    Ngẫu hứng phố

    Nhớ Hà Nội

  10. #7
    Retired Mod
    ZenG's Avatar


    Thành Viên Thứ: 1309
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 790
    Thanks
    114
    Thanked 131 Times in 65 Posts
    G có link down nè đã check rồi, vẫn ổn ^^
    >>>DOWNLOAD - MF
    Chữ ký của ZenG
    My FB: Emz Nadax

    Utopia is on the horizon.
    I come 2 steps closer, it moves 2 steps away.
    I walk 10 steps and the horizon runs 10 step farther.
    That is what utopia is for: WALKING.
    ~ Eduardo Galeano ~

  11. The Following 2 Users Say Thank You to ZenG For This Useful Post:

    feng (30-07-2009), Gaopink (14-05-2010)

  12. #8
    Shokunin


    Thành Viên Thứ: 20668
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 33
    Thanks
    0
    Thanked 4 Times in 3 Posts
    Trích Nguyên văn bởi Hải Phong View Post
    bạn có thể post ngắn lại được k? Dài quá và khoảng thời gian giữa những lần post của bạn cũng ngắn quá, tớ nghĩ nên post ngắn lại để người đọc đỡ ngại vì đây là đọc online, và chỉ nên post 1 lần/ngày, nhiều cũng k phải là tốt bạn ah, người đọc chưa kịp đọc, nhìn thấy nhiều chữ quá lại bỏ qua đấy
    Tớ đọc truyện này rồi nhưng chưa xem phim. phim hay k bạn? Thường thi đọc truyện rồi tớ ít xem phim lắm vì phim k lột tả được nội tâm nv như truyện, nhất lại là tác phẩm của Murakami. Cảm ơn vì đã post truyện nhé
    Oh, giờ mới để ý, 2 nick khác nhau, không biết có phải cùng 1 người không ==!
    tất nhiên là 2người khác nhau rồi
    Tôi là fan của Murakami Haruki
    Thấy bạn ấy post mới có 1 chương nên tớ post thêm lên cho các bạn thôi.
    Các bạn nào muốn đọc Rừng Nauy và Người Tình Sputnik của Murakami mà ko muốn chờ lâu thì vào blog của tớ nhé
    http://360.yahoo.com/nhothuongai_mn

    Chương 4



    Trong những ngày nghỉ hè ấy nhà trường gọi cảnh sát dã chiến đến. Họ dỡ hết những chướng ngại vật và bắt nhiều sinh viên. Chuyện ấy chẳng có gì lạ. Hồi bấy giờ sinh viên là vậy. Các trường đại học không dễ gì bị "giải tán". Hàng núi của đã được người ta đầu tư vào cho chúng, và chúng không thể cứ thế tan rã chỉ vì một số sinh viên hứng trí làm càn. Mà thực sự thì lũ sinh viên đã bao vây trường kia cũng chẳng muốn giải tán trường. Tất cả ý muốn thực của chúng chỉ là thay đổi cán cân quyền lực trong nội bộ nhà trường, mà chuyện ấy thì tôi không bao giờ quan tâm. Cho nên khi cuộc bãi khoá cuối cùng chấm dứt, tôi chẳng có tí xúc cảm nào.

    Tháng Chín, tôi vào trường và tưởng sẽ thấy toàn cảnh đổ nát. Nhưng mọi thứ vẫn y nguyên. Sách trong thư viện vẫn đâu vào đó, các phòng giáo viên vẫn không bị phá, phòng giáo vụ vẫn không bị đốt. Tôi kinh ngạc vô cùng. Lũ chúng nó đã làm gì sau những đông chướng ngại vật ấy?

    Sau khi cuộc bãi khoá đã tịt ngòi và các giờ lên lớp lại bắt đầu trong khi cảnh sát vẫn chiếm đóng nhà trường, bọn đầu tiên đến lớp lại chính là lũ khốn đã cầm đầu cuộc bãi khoá. Như đã không có chuyện gì xảy ra, chúng ngồi đó, ghi ghi chép chép và trả lời "có mặt" khi điểm danh. Thật không thể tin được. Dù thế nào đi nữa thì cuộc bãi khoá vẫn còn chứ đã xong đâu. Chưa có tuyên bố kết thúc gì hết. Chỉ mới có chuyện nhà trường gọi cảnh sát vào dỡ bỏ các chướng ngại vật, còn cuộc bãi khoá nhẽ ra vẫn đang tiếp tục mới đúng. Lũ khốn này đã vừa mới gào thét như điên, chửi cả những sinh viên phản đối bãi khoá (hoặc mới chỉ tỏ ra nghi ngại), và đôi khi còn đem họ ra xử trong những toà án chuột do chính chúng dựng nên. Không nhịn được, tôi đã gặp bọn đầu sỏ này và hỏi tại sao chúng lại đến lớp nghe giảng chứ không tiếp tục bãi khoá, nhưng đứa nào cũng ấp a ấp úng không ra sao hết. Mà chúng có thể nói gì được chứ? Rằng chúng sợ mất điểm vì bỏ lớp ư? Cứ nghĩ chính bọn này đã hò hét đòi giải tán đại học! Thật là một trò đùa. Gió chỉ đổi chiều một chút thôi, nhưng tiếng thét của chúng đã chỉ còn là những lời thì thào thiểu não.

    Này Kizuki, tôi nghĩ cậu chẳng lỡ làng cái quái hì đâu. Thế giới này là một bãi cứt. Lũ khôn kia đang được điểm tốt và sẽ tạo ra một xã hội theo hình ảnh ghê tởm của chính chúng.

    Trong một thời gian tôi vẫn đến lớp nhưng không chịu lên tiếng lúc điểm danh. Tôi biết đó chỉ là một cư chỉ vô nghĩa, nhưng rất buồn vì chẳng có cách nào khác.

    Tôi chỉ còn cách hết sức xa lánh những sinh viên khác.

    Cứ im lặng mỗi khi nghe gọi đến tên mình, ít nhất tôi cũng làm cho mọi người phải khó chịu mất mấy giây.

    Không có đứa nào nói năng gì với tôi, và tôi cũng không hé răng với một đứa nào trong bọn chúng.

    Sang tuần thứ hai của tháng Chín thì tôi đi đến kết luận rằng học đại học là một việc làm vô nghĩa. Tôi quyết định sẽ coi đó là một giai đoạn luyện tập các kỹ năng đối phó với buồn chán. Tôi chẳng có gì đặc biệt phải làm ở ngoài đời để phải bỏ học ngay lập tức, nên tôi vẫn đến lớp hàng ngày, ghi chép, và thời gian rỗi thì vào thư viện đọc sách hoặc ngó nghiêng linh tinh.

    Và mặc dù cái tuần lễ thứ hai của tháng Chín ấy đã sắp hết, vẫn chưa thấy tin tức gì của Quốc-xã. Còn hơn là bất thường, đây là một chuyện long trời lở đất. Trường đã vào chương trình rồi, và không ai có thể tưởng tượng là Quốc-xã lại để lỡ những buổi học của hắn. Một lớp bụi mỏng đã phủ trên bàn học và cái đài của hắn. Cái cốc nhựa và bàn chải đánh răng, hộp trà bằng thiếc, ống thuốc xịt giết sâu bọ và những đồ linh tinh khác vẫn xếp gọn gàng trên giá.

    Tôi vẫn giữ căn phòng sạch sẽ lúc vắng mặt hắn.

    Trong một năm rưỡi qua tôi đã nhiễm thói sạch sẽ, và không có hắn dọn phòng, tôi chẳng còn cách nào khác là phải tự mình làm chuyện đó. Tôi quét nhà hàng ngày, lau cửa sổ ba ngày một lần, và phơi chăn nệm mỗi tuần một lần, chờ hắn về và có lời khen ngợi tôi.

    Nhưng hắn không bao giờ trở lại nữa. Một hôm tôi đi học về và thấy tất cả đồ của hắn đã biến mất và tên hắn ở cửa cũng bị bóc đi. Tôi đến chỗ ông giám thị để hỏi xem có chuyện gì.

    "Anh ấy ra khỏi khu học xá này rồi," ông ta nói. "Hiện thời thì anh ở một mình trong phòng đó."

    Tôi không thể làm cho ông ta nói thật chuyện gì đã xảy ra với Quốc-xã. Niềm vui lớn lao nhất của con người ấy là kiểm soát mọi chuyện và không cho ai biết gì hết.

    Bức ảnh núi băng trôi của Quốc-xã ở lại trên tường thêm một thời gian, nhưng cuối cùng tôi cũng hạ nó xuống và thay bằng ảnh Jim Morrison và Miles Davis. Cái đó khiến căn phòng có vẻ là của tôi hơn một chút. Tôi dùng một ít tiền đi làm dành dụm được mua một máy stereo nho nhỏ. Đêm đến tôi thường uống rượu và nghe nhạc một mình. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ đến Quốc-xã, nhưng tôi thấy ở một mình thật là thích.

    Mười một giờ rưỡi một sáng thứ Hai nọ, sau giờ giảng về Euripides trong lớp Lịch sử sân khấu, tôi đi bộ mười phút đồng hồ đến một quán ăn nhỏ và ăn trưa với món trứng rán lòng đào và một đĩa rau trộn. Cái quán nằm trong một ngõ nhỏ yên tĩnh và hơi đắt hơn nhà ăn sinh viên, nhưng ngồi ở đó có thể thư giãn được, và họ biết cách làm món trứng lòng đào tuyệtt ngon. "Họ" đây là một cặp vợ chồng rất ít khi nói gì với nhau, với một người chạy bàn làm việc nửa thời gian. Khi tôi ngồi ăn cạnh cửa sổ, một nhóm bốn sinh viên bước vào quán, hai trai hai gái, tất cả đều ăn mặc gọn gàng. Họ ngồi gần cửa ra vào, xem thực đơn và bàn thảo một lúc cho đến khi một người lên tiếng gọi món cho cả bọn.

    Một lúc sau tôi để ý thấy một trong hai cô gái cứ liếc mắt về phía tôi. Cô ta có mái tóc cực ngắn và đeo kính râm, mặc một bộ ảo váy mini bằng vải bông trắng. Tôi không hề biết cô ta là ai, nên cứ tiếp tục ăn, nhưng rồi cô lách ra khỏi bàn đang ngồi và bước đến chỗ tôi. Đặt một bàn tay lên mép bàn tôi đang ngồi, cô nói, "Cậu là Watanabe có phải không?"



    "Đừng ngốc thế. Tôi chỉ là một thằng bình thường như mọi người."

    Bà chủ quán mang cà-phê đến cho tôi và đặt nó xuống bàn. Tôi nhấp một ngụm không đường sữa gì cả.

    "Nhìn kìa. Cậu còn uống đen không đường nữa?"

    "Chẳng liên quan gì đến Humphrey Bogart cả," tôi kiên nhẫn giải thích. "Chỉ tình cờ là răng tôi không chịu được đường. Cậu nghĩ về tôi sai bét rồi."

    "Sao da cậu rám nắng thế?"

    "Mấy tuần rồi tôi đi chơi bộ trên núi. Ba-lô. Túi ngủ."

    "Cậu đi đâu?"

    "Kanazawa. Bán đảo Noto. Lên tận Niigata."

    "Một mình ư?"

    "Một mình," tôi nói. "Gặp bạn đồng hành chỗ này chỗ kia."

    "Vài bạn đồng hành lãng mạn chứ? Đàn bà lạ ở những nơi xa lạ."

    "Lãng mạn ư? Bây giờ thì tôi biết đúng là cậu hiểu tôi sai bét thật. Một thằng lưng đeo túi ngủ và râu ria lởm chởm thì lấy đâu ra lãng với mạn!"

    "Lúc nào cậu cũng đi một mình thế à?"

    "Đại khái thế."

    "Cậu thích cảnh cô liêu à?" cô hỏi, tựa má vào tay. "Du lịch một mình, ăn một mình, ngồi một mình trong lớp…"

    "Chẳng ai thích một mình nhiều đến thế. Nhưng tôi không cố đánh bạn, vậy thôi. Làm thế chỉ tổ hay thất vọng."

    Miệng ngậm đầu mẩu của một bộ hoa tai, kính râm tụt trễ xuống, cô ta lẩm bẩm, "Chẳng ai thích một mình nhiều đến thế. Tôi chỉ ghét bị thất vọng." Cậu có thể dùng câu này nếu có khi nào cậu viết hồi ký."

    "Cám ơn," tôi nói.

    "Cậu thích màu xanh lá cây không?"

    "Sao cậu hỏi thế?"

    "Cậu đang mặc sơ-mi polo xanh lá cây đấy". "Chẳng có gì đặc biệt. Tôi sẽ mặc bất cứ màu gì."

    "Chẳng có gì đặc biệt. Tôi sẽ mặc bất cứ màu gì". Tôi thích lối nói chuyện của cậu quá. Giống như trát vữa, mịn mà hay. Đã có ai nói với cậu điều này chưa?

    "Chưa," tôi nói.

    "Tên tôi là Midori," cô nói. "Xanh lá cây" đấy". Nhưng tôi mặc xanh lá cây thì nhìn khủng khiếp lắm. Lạ đấy chứ, hả? Hình như tôi bị phép thuật nguyền rủa, cậu có thấy thế không? Tên chị tôi lại là Momoko: "Hồng đào."

    "Chị ấy mặc màu hồng có đẹp không?"

    "Tuyệt đẹp? Chị ấy sinh ra là để mặc đồ màu hồng. Thật hoàn toàn bất công."

    Bàn chỗ Midori đã có đồ ăn, và một cậu mặc áo tây vải madras gọi với sang, "Ê, Midori, về ăn đi chứ?"

    Cô vẫy tay về phía ấy như đang nói "Biết rồi."

    "Này," cô nói, "Cậu có ghi chép ở lớp không đấy? Lớp sân khấu ấy!"

    "Có"

    "Thế này thật không phải, nhưng cậu cho tôi mượn vở ấy được không? Tôi đã lỡ mất hai buổi, mà chẳng quen ai ở lớp cả."

    "Có vấn đề gì đâu," tôi nói, tay rút quyển vở trong túi sách ra. Sau khi đã xem kỹ và thấy không có bút tích riêng tư gì trong đó, tôi đưa nó cho Midori.

    "Cám ơn," cô ta nói. "Ngày kia cậu có đến lớp không?"

    "Có"

    "Vậy gặp tôi ở đây vào buổi trưa nhé. Tôi sẽ trả lại vở cho cậu và đãi cậu bữa trưa. Nghĩa là… không ăn một mình thì cậu cũng sẽ không bị đau bụng hay gì chứ, phải không?"

    "Không có đâu," tôi nói. "Nhưng cậu không cần phải đãi tôi bưa trưa chỉ vì tôi cho cậu mượn vở"

    "Đừng lo chuyện đó," cô nói. "Tôi thích đãi người khác ăn trưa mà. Nhưng mà cậu cũng nên ghi lại ở đâu đó. Cậu sẽ không quên chứ."

    "Tôi sẽ không quên. Ngày kia. Mười hai giờ. Midori. Xanh lá cây."

    Ai đó từ bàn bên kia lại gọi với sang, "Nhanh lên chứ Midori, đồ ăn nguội hết rồi!"

    Cô vẫn mặc kệ và lại hỏi tôi, "Lúc nào cậu cũng nói chuyện kiểu này à?"

    "Chắc vậy," tôi nói. "Chưa từng để ý chuyện đó."

    Quả thực chưa có ai từng nói cho tôi biết cách nói chuyện của tôi có gì khác thường hay không.

    Cô ta có vẻ nghĩ ngợi điều gì đó vài giây, rồi đứng lên, mỉm cười, và đi về bàn mình. Cô vẫy tay lúc tôi đi qua bàn ấy, nhưng ba người kia chẳng ai ngó đến tôi.

    Trở lại quán ăn vào trưa hôm thứ Tư, tôi chẳng thấy tăm hơi Midori đâu cả. Tôi định sẽ làm một cốc bia để chờ, nhưng khi bia vừa bưng ra thì quán bỗng bắt đầu đầy khách nên tôi bèn gọi món và ăn một mình. Tôi ăn xong lúc mười hai giờ ba mươi lăm, nhưng vẫn không thấy Midori đến. Tôi trả tiền, ra ngoài rồi sang đường đến một ngôi dền nhỏ và đứng ở chỗ thềm đá cho đầu óc sảng khoái để chờ Midori. Đến một giờ thì tôi bỏ cuộc và quay về thư viện đọc sách. Hai giờ thì đến lớp tiếng Đức.

    Học xong, tôi đến văn phòng sự vụ sinh viên và tìm tên Midori trong danh sách lớp lịch sư sân khấu. Có mỗi một Midori trong lớp ấy, là Midori Kobayashi. Sau đó tôi lục phiếu hồ sơ sinh viên và tìm ra địa chỉ cùng số điện thoại của một Midori Kobayashi, vào học từ 1969. Cô ta sống ở một khu ngoại ô nhỏ phía tâybắc gọi là Thshima, cùng với gia đình. Tôi lẳng lặng vào một trạm điện thoại và quay đến số ấy.

    Một người đàn ông trả lời: "Hiệu sách Kobayashi xin nghe."

    Hiệu sách Kobayashi ư?

    "Xin lỗi làm phiền ông," tôi nói, "Midori có nhà không ạ?"

    "Không, nó không có nhà," ông ta nói.

    "Thưa ông cô ấy có ở trường không ạ?"

    "Hừmmm, không đâu, có lẽ nó ở bệnh viện. Xin hỏi ai đang gọi thế ạ?"

    Đáng nhẽ phải trả lời thì tôi chỉ cám ơn ông ta rồi cúp máy. Bệnh viện ư? Cô ta ốm hoặc bị làm sao chăng?

    Nhưng giọng người kia không thấy có tí lo âu cấp bách nào. "Có lẽ nó ở bệnh viện," ông ta đã nói thế, nghe dễ dàng như là "Nó đang ở tiệm bán cá." Tôi nghĩ đến một vài khả năng khác cho đến lúc chỉ nghĩ thế thôi cũng đã thành quá rắc rối, rồi tôi về phòng mình nằm dài trên giường đọc cuốn Đức ông Jim mượn của Nagasawa. Đọc xong, tôi đến phòng hắn để trả.

    (còn tiếp)
    thay đổi nội dung bởi: sarujun, 06-01-2011 lúc 12:48 AM

  13. The Following User Says Thank You to bel_tigon For This Useful Post:

    feng (30-07-2009)

  14. #9
    Shokunin


    Thành Viên Thứ: 35767
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 47
    Thanks
    1
    Thanked 4 Times in 2 Posts
    Trích Nguyên văn bởi ZenG View Post
    G có link down nè đã check rồi, vẫn ổn ^^
    >>>DOWNLOAD - MF
    định vào 4rum post link down cho mọi người về xem off, nhưng Mod post roài

    Up thêm 1 link cho bà con nữa nà

    DOWNLOAD - MF

  15. #10
    Shokunin


    Thành Viên Thứ: 20668
    Giới tính
    Tổng số bài viết: 33
    Thanks
    0
    Thanked 4 Times in 3 Posts
    Tiếp Chương 4



    "Chúng tớ có một nhóm nhạc dân gian. Tớ chơi ghi-ta."

    Cô vừa dọn đồ ăn ra đĩa vừa hát bài "Bảy đoá thuỷ tiên."

    Midori nấu nướng giỏi hơn tôi tưởng rất nhiều: đủ các loại món rán, xào, luộc, nướng, muối rất ngon, chế biến từ trứng gà, cá thu, đậu quả tươi, cà tím, các loại nấm, củ cải đỏ, vừng, nấu theo phong cách Kyoto rất tinh tế.

    "Ngon tuyệt," tôi nói, miệng vẫn đầy thức ăn.

    "Ôkê, bây giờ cậu nói thật đi!" Midori nói. "Cậu tưởng tớ không thể nấu nướng ngon lành thế này đúng không - và cứ nhìn tớ thì ai cũng nghĩ vậy, đúng không?"

    "Quả có thế," tôi thú thật.

    "Cậu quê ở Kansai, nên thích ăn các món có hương vị tinh tế kiểu này, đúng không?"

    "Chẳng nhẽ cậu đã chọn món và nấu nướng theo khẩu vị đặc biệt của tớ?"

    "Đừng vớ vẩn? Tớ không chịu rắc rối thế đâu. Không đâu. Nhưng nhà tớ vẫn ăn uống kiểu này."

    "Vậy. mẹ cậu hoặc bố cậu, cũng là người Kansai à?"

    "Không. Bố tớ đẻ ở Tokyo và mẹ tớ là người Fukushima. Họ hàng nhà tớ không có ai là người Kansai. Tất cả đều là người Tokyo hoặc Kanto bắc."

    "Tớ chịu đấy," tôi nói. "Làm sao cậu có thể nấu nướng theo lối Kansai một trăm phần trăm thế này được. Có ai dạy cậu à?"

    "À, đó là cả một câu chuyện đấy," cô nói, miệng nhai một miếng trứng rán. "Mẹ tớ ghét đủ thứ việc nhà, và bà ấy hầu như không nấu nướng gì bao giờ. Và chúng tớ lúc nào cũng phải nghĩ, ví dụ như "Hôm nay bận quá, mình gọi đồ ăn về nhà đi", hoặc "Mình ra hàng thịt mua ít chả cá mà ăn cho rồi", đại loại thế. Ngay từ hồi bé tớ đã ghét thế rồi, kiểu cứ làm một nồi cà-ri to đùng và ăn ba ngày liền. Cho đến một hôm, đang năm thứ năm trung học, tớ quyết định sẽ phải ra tay nấu nướng cho cả nhà và phải nấu thật ngon. Tớ đến hiệu sách lớn Kinokuniya ở Shinjuku mua cuốn dạy nấu ăn to nhất và đẹp nhất, rồi tớ thông thạo sách ấy từ bìa trước đến bìa sau, từ chọn thớt mài dao cho đến cách lọc xương và đánh vẩy cá, đủ thứ. Tác giả cuốn sách ấy tình cờ lại là người Kansai, cho nên tất cả những món tớ biết nấu đều là theo lối Kansai."

    "Nghĩa là cậu đã học nấu tất cả những thứ này từ một cuốn sách ư?"

    "Tớ để dành tiền để đi ăn của thật. Có thế mới học được hương vị. Cảm tính của tớ tốt. Nhưng đầu óc logic thì tớ tuyệt vọng."

    "Cậu tự học mà nấu giỏi thế này thì thực là kinh khủng!"

    "Không dễ đâu," Midori thở dài nói, "Lớn lên trong một cái nhà mà mọi người đều chẳng thèm để ý gì đến đồ ăn thức uống. Tớ nói tớ muốn mua dao với nồi tử tế nhưng chẳng ai cho tiền. Họ bảo "Những cái mình đang dùng là tốt chán rồi". Nhưng tớ bảo họ điên à, dao dựa kiểu ấy có muốn lọc xương cá cũng không xong, thế là họ nói "Mày lọc xương cá làm cái quái gì cơ chứ?" Không thể nói phải quấy với họ được. Tớ bèn dành dụm tiên tiêu vặt và đi sắm dao nồi rổ rá chuyên nghiệp mang về dùng. Cậu có tin được không? Một con nhóc mười lăm tuổi tiết kiệm từng xu để mua rố rá đá mài và nồi chống dính trong khi lũ con gái khác ở trường đã nhiều tiền thì chớ lại tha hồ sắm quần áo giày dép để chưng diện. Cậu có thấy buồn cho tớ không hả?"

    Tôi vừa gật đầu vừa nuốt đầy một ngụm súp đậu xanh nước trong veo.

    "Đến lớp cuối ở trung học, tớ đã phải mua một cái chảo rán trứng - loại chảo dài hẹp để làm món trứng dashimaki mà mình đang ăn đây này. Tiền ấy đáng nhẽ tớ dùng để mua một cái xu-chiêng mới. Thế là ba tháng liền tớ chỉ có độc một cái xu-chiêng. Cậu có tin được không? Tớ giặt nó vào ban đêm, làm đủ cách cho nó khô để sáng hôm sau còn mặc. Khổ nhất trần đời là phải mặc xu-chiêng ẩm. Tớ đi đó đây mà nước mắt cứ trào ra. Cứ nghĩ đến mình đang phải khổ vì một cái chảo rán trứng!"

    "Nó bắt đầu từ chuyện cái xu-chiêng," tôi nói.

    "Thôi nhé, ăn món trứng đi và hay nghĩ đến những điều tớ vừa bảo với cậu" Midori nói với vẻ nghiêm trang.

    Ăn hết phần mình là tôi no kễnh, nhưng Midori ăn ít hơn nhiều. "Nấu rồi thì hết muốn ăn." cô nói. Cô dọn bát đĩa, lau bàn, mang ra một bao Marlboro, rút một điếu và châm lửa bằng diêm. Hai tay ôm cái cốc cắm thuỷ tiên, cô chăm chú nhìn mấy bông hoa một lúc lâu.

    "Có lẽ tớ sẽ không cắm chúng sang bình nữa," cô nói. "Để chúng thế này thì có vẻ như tớ vừa tình cờ hái chúng ở một cái ao nào đó và cứ thế mà bỏ vào cái gì đầu tiên có trong tay."

    "Quả là tớ đã hái chúng ở một cái ao chỗ ga tàu Otsuka," tôi nói.

    Cô chặc lưỡi. "Cậu là một gã kì lạ. Nói đùa mà mặt cứ tỉnh khô."

    Tay đỡ cằm, cô hút đến nửa điếu thuốc thì dụi nó vào cái gạt tàn. Cô dụi mắt như thể vừa bị khói xộc vào.

    "Con gái nhẽ ra phải duyên dáng hơn khi tắt thuốc lá. Cậu dụi thuốc như một ga thợ xẻ vậy. Cậu không nên dúi nó xuống ngay thế, mà phải nhẹ nhàng gạt quanh một tí đã. Như thế nó mới không cong gẫy thế kia. Với lại con gái không ai nhả khói ra đằng mũi như thế. Mà cũng chẳng bao giờ đi kể chuyện chỉ mặc một cái xu-chiêng liền trong ba tháng trong khi ngồi ăn một mình với đàn ông."

    "Thì tớ là thợ xẻ mà," Midori nói, gãi gãi cạnh sống mũi. "Tớ không bao giờ có thể sành điệu được. Tớ đã đùa thử nhiều lần, nhưng không thể được. Còn chê trách gì nữa không?"

    "Con gái không hút Marlboro," tôi bảo.

    "Khác quái gì? Thuốc nào thì cũng dở như nhau cả." Cô xoay xoay cái bao Marlboro trong tay. "Tớ bắt đầu hút thuốc từ tháng trước. Chẳng phải thèm thuồng gì. Chỉ thinh thích thế thôi."

    "Sao lại thế?"

    Cô ép chặt hai tay lên mặt bàn và nghĩ một lúc. "Mà có gì là khác nhau đâu? Cậu không hút thuốc?"

    "Bỏ từ tháng Sáu" tôi nói.

    "Sao thế?"

    "Phiền lắm. Tớ ghét bị hết thuốc vào lúc nửa đêm. Tớ không thích bị cái gì bó buộc mình kiểu ấy."

    "Cậu biết rất rõ cái gì cậu thích và cái gì cậu không thích," cô nói.

    "Có lẽ thế," tôi bảo. "Có lẽ vì thế mà mọi người không thích tớ. Chưa bao giờ."

    "Là vì cậu lộ liễu chuyện đó," cô nói. "Cậu tỏ rõ thái độ cậu bất cần người ta có thích hay ghét cậu hay không. Cái đó chọc tức mọi người." Cô nói gần như lẩm nhẩm, cằm tựa trong lòng bàn tay. "Nhưng tớ thích nói chuyện với cậu. Cách nói của cậu rất lạ. "Tớ không thích bị cái gì bó buộc mình kiểu ấy."

    Tôi giúp cô rửa bát. Đứng cạnh cô, tôi lau những cái cô đã rửa, rồi xếp chúng lên mặt bàn.

    "Này," tôi nói, "hôm nay nhà cậu mọi người đi vắng hết à?"

    "Mẹ tớ ở dưới mộ. Bà ấy chết hai năm rồi."

    "Rồi, tớ đã nghe chuyện ấy."

    "Chị tớ đi chơi với chồng chưa cưới. Có lẽ lái xe đi đâu đó. Anh kia làm cho một hãng ôtô. Hắn thích xe lắm. Tớ không thích ôtô."

    Midori ngừng nói và rửa. Tôi ngừng nói và lau.

    "Còn có bố tớ nữa," cô nói sau một lúc im lặng.

    "Phải rồi," tôi bảo.

    "Ông ấy đi Uruguay từ tháng Sáu năm ngoái và vẫn ở đó cho đến bây giờ."

    "Uruguay! Sao lại Uruguay?"

    "Ông ấy đang tính ở hẳn đó, cậu có tin hay không thì tuỳ. Một chiến hữu từ thời lính tráng của ông ấy có cái nông trại ở đó. Đùng một cái, bố tớ tuyên bố là ông ấy cũng sẽ đi, rằng ở Uruguay khả năng của ông ấy sẽ không bị hạn chế, và ông ấy lên máy bay, thế thôi. Chúng tớ cố hết sức ngăn ông ấy, như "Sao bố lại muốn đến một chỗ như thế? Bố không biết tiếng, bố hầu như chưa bao giờ ra khỏi Tokyo." Nhưng ông ấy không nghe. Mẹ tớ mất là một cú sốc thật sự với ông ấy. Nghĩa là chuyện đó làm ông thành ra lẩn thẩn. Bố tớ yêu mẹ tớ đến thế đấy. Thật thế."

    Tôi không biết nói gì, chỉ nhìn Midori chằm chằm, mồm há hốc.

    "Cậu có biết ông ấy nói gì với chị em tớ lúc mẹ tớ mất không? "Tao thà mất hai đứa chúng mày còn hơn mất bà ấy." Tớ xỉu hết cả người. Không thể nói được gì nữa. Cậu có hiểu không? Có ai lại nói ra một điều như thế chứ? Ôkê, ông ấy mất người đàn bà yêu dấu, người bạn đời của ông ấy. Tớ hiểu nỗi đau ấy, nỗi buồn ấy, sự đổ vỡ ấy. Tớ thương ông ấy. Nhưng không ai nói với con gái của chính mình rằng "Nhẽ ra mày nên chết thay cho mẹ mày" Nghĩa là, nó thật khủng khiếp. Cậu có đồng ý không nào?"

    "Ờ tớ hiểu ý cậu rồi."

    "Cái vết thương ấy sẽ không bao giờ lành được," cô vừa nói vừa lắc đầu. "Nhưng quả thực, nhà tớ ai cũng lạ. Người nào cũng có cái gì đó hơi là lạ."

    "Có vẻ thế thật," tôi nói.

    "Dù sao, thật tuyệt vời khi thấy có hai người yêu nhau, phải không cậu? Tớ muốn nói là một người đàn ông yêu vợ mình đến mức có thể bảo lũ con gái đáng nhẽ chúng phải chết thay cho mẹ."

    "Có thể tuyệt vời thật, nếu như cậu nhìn nhận theo kiểu ấy."

    "Và thế là ông ấy bỏ mặc hai đửa chúng tớ và trốn sang Uruguay."

    Tôi lau thêm một cái đĩa mà không nói năng gì. Sau cái cuối cùng, Midori xếp tất cả lại vào chạn.

    "Thế cậu có tin tức gì của bố không?" tôi hỏi.

    "Một cái bưu thiếp. Hồi tháng Ba. Nhưng ông ấy viết gì chứ? "Ở đây nóng lắm" hoặc "Hoa quả không ngon như bố tưởng". Những chuyện như thế. Tớ muốn nói là, xin ông tạnh đi cho được việc! Một bức ảnh ngu xuẩn chụp một con lừa! Ông ấy điên hẳn rồi! Thậm chí ông ấy cũng chẳng báo tin đã gặp được lão kia chưa - cái ông chiến hữu hoặc gì gì ấy. Ông ấy cũng có thêm ở dòng cuối rằng khi nào ổn định ông ấy sẽ đón tớ với chị tớ sang, nhưng sau đấy thì bặt vô âm tín. Và ông ấy không bao giờ trả lời thư của bọn tớ.."

    "Cậu sẽ làm gì nếu bố cậu bảo "Đến Uruguay với bố"?"

    "Tớ sẽ đi và ngó nghiêng một tí. Biết đâu lại vui. Chị tớ thì lại bảo không đời nào. Chị tớ không chịu được những nơi bẩn thỉu."

    "Uruguay bẩn lắm à?"

    "Ai biết đâu được! Chị ấy nghĩ thế. Kiểu như đường xá thì đầy phân lừa và ruồi nhặng, rồi chuồng xí thì hỏng, và cho nào cũng lổm ngổm những thằn lằn với bọ cạp. Có lẽ chị ấy xem thấy trên phim. Chị ấy không thể chịu được ruồi nhặng. Chị ấy chỉ thích phóng ôtô xịn qua những nơi có phong cảnh đẹp."

    "Lại thế nữa kia à?"

    "Nói thật chứ, Uruguay thì đã sao? Tớ sẽ đi."

    "Vậy ai sẽ trông cửa hàng?"

    "Chị tớ. Nhưng chị ấy ghét việc này lắm. Chúng tớ có một ông bác ở gần đây vẫn đến giúp và đi giao hàng. Tớ thì cứ rảnh là phụ một tay. Hiệu sách thì việc cũng không đến nỗi khổ sai lắm, nên bọn tớ có thể làm được. Còn nếu quá sức thì bọn tớ sẽ bán nó đi."

    "Cậu có thích bố cậu không?"

    Midori lắc đầu. "Không thích lắm."

    "Vậy sao cậu lại có thể theo ông ấy sang Uruguay?"

    "Tớ tin ông ấy."

    "Tin ông ấy?"

    "Ừ, tớ không ưa ông ấy lắm, nhưng tớ tin ở bố tớ. Làm sao có thể không tin một người dám bỏ hết nhà cửa, con cái, công việc để chạy sang tận Uruguay chỉ vì choáng váng trước cái chết của vợ mình? Cậu có hiểu ý tớ không?"

    Tôi thở dài. "Một tí thôi, nhưng cũng không hẳn."

    Midori cười váng lên và vỗ vỗ vào lưng tôi. "Thôi nào," cô nói, "không sao đâu."

    Có hết chuyện lạ này đến chuyện lạ kia trong buổi chiều Chủ nhật ấy. Một trận hoả hoạn xảy ra gần nhà Midori, và khi leo lên sân phơi trên tầng ba để xem, chúng tôi đã gần như hôn nhau. Nói thế nghe thật ngu xuẩn, nhưng mà đúng như vạy.

    Chúng tôi đang uống cà-phê sau bữa ăn và nói chuyện về cuộc sống ở đại học thì nghe tiếng xe cứu hoả.

    Tiếng còi cứ to mãi lên và có vẻ có thêm nhiều xe. Rất nhiều người chạy ngang qua cửa hàng, nhiều người hò hét. Midori vào một phòng phía mặt đường, mở cửa sổ nhìn xuống. "Chờ một phút nhé," cô nói và biến mất, sau đó tôi nghe tiếng chân chạy thình thịch trên cầu thang.

    Tôi ngồi đó uống cà-phê một mình và cô nhớ xem Uruguay là ở đâu. Xem nào, Brazil thì ở đây, Venezuela ở kia, và Colombia ở đâu đó chỗ này nhưng tôi không thể nhớ vị trí của Uruguay. Mấy phút sau Midori xuống và giục tôi đi ngay theo cô. Tôi theo cô đến cuối phòng và trèo một cái thang hẹp dốc ngược lên một cái sàn gô có những cọc phơi quần áo bằng tre. Cái sàn ấy cao hơn hầu hết những mái nhà xung quanh và có thể nhìn xuống khu phố ấy rất rõ. Những đám khói đen lớn đang ngùn ngụt bốc lên từ một nơi cách đó ba bốn nhà và bị gió thổi bay về phía phố chính. Không khí khét lèn lẹt.

    "Nhà Sakamoto rồi," Midori nói, nghiêng người trên lan can. "Họ vẫn làm những phụ kiện cửa truyền thống và những đồ như vậy. Nhưng lâu nay đã thôi rồi."

    Tôi cũng nghiêng theo cô trên lan can và cố nhìn xem chuyện gì đang xảy ra. Một toà nhà ba tầng che khuất chỗ bị cháy, nhưng hình như có ba hoặc bốn xe cứu hoả đang hoạt động ở đó. Chỉ có hai xe có thể len vào ngõ hẹp chỗ nhà cháy, mấy cái kia phải đậu ngoài phố chính. Một đám đông tò mò đang tụ tập quanh đó.

    "Này, có khi cậu nên gói ghém những thứ có giá trị và sẵn sàng sơ tán đi," tôi bảo Midori. "Gió đang thổi về hướng khác, nhưng có thể đổi chiều bất kì lúc nào, mà lại có cái trạm xăng ở ngay kia. Tớ sẽ giúp cậu xếp đồ."

    "Những thứ có giá trị nào? Midori nói.

    "Ơ kìa, chắc cậu phải có vài thứ cậu muốn giữ chứ? Giấy tờ ngân hàng, các con dấu, giấy tờ luật pháp, những thứ như thế. Tiền mặt dự trữ nữa."

    "Quên đi. Tớ không chạy đi đâu cả."

    "Ngay cả nếu nó cháy đến đây ư?"

    "Cậu nghe rõ rồi mà. Tớ chết cũng chẳng sao."

    Tôi nhìn vào mắt cô, và cô nhìn thẳng vào tôi. Tôi không thể biết là cô đùa hay thật. Chúng tôi cứ thế mất một lúc, và rồi tôi hết lo lắng.

    "Ôkê," tôi bảo. "Tớ hiểu rồi, tớ sẽ ở lại với cậu."

    "Cậu sẽ chết cùng tớ ư? Midori nói với cặp mắt sáng long lanh.

    "Làm gì có chuyện ấy tôi bảo. "Tớ sẽ chạy nếu có nguy hiểm. Nếu cậu muốn chết, cậu có thể chết một mình."

    "Cái đồ đểu lòng lim dạ đá này!"

    "Tớ không thể chết với cậu chỉ vì cậu đã đãi tớ bữa trưa. Tất nhiên, nếu là bữa tối thì…"

    "Thôi nào, được rồi… Mình cứ ở đây xem một lúc đã. Mình có thể hát. Nếu tình hình xấu đi thì lúc ấy hãy tính."

    "Hát ư?"

    Midori mang hai cái gối ngồi sàn, bốn hộp bia và một cái ghi-ta từ dưới nhà lên. Chúng tôi uống và nhìn khói đen bốc lên cao. Cô gẩy đàn và hát. Tôi hỏi cô không sợ hàng xóm họ ghét hay sao, xem hoả hoạn ngay gần nhà mà lại vừa uống bia vừa hát trên sân phơi chẳng có vẻ là một cử chỉ đáng kính.


    Tôi lắng nghe mớ âm nhạc hổ lốn ấy, bụng nghĩ đến chuyện ngôi nhà sẽ nổ tung theo cái trạm xăng khi nó bắt lửa. Hát mệt rồi, Midori để cái ghi-ta xuống và ngả vào vai tôi như con mèo ngoài nắng.

    "Cậu thấy bài hát của tớ thế nào?" cô hỏi.

    Tôi thận trọng đáp, "Độc đáo, đặc biệt, và biểu lộ rất rõ tính cách của cậu."

    "Cám ơn," cô nói. "Chủ đề là: Tớ chẳng có gì."

    "Ô tớ cũng hơi thấy thế."

    "Cậu biết không," cô nói, "khi mẹ tớ chết…"

    "Sao nữa?"

    "Tớ chẳng thấy buồn tí nào.

    "Ồ!"

    "Mà lúc bố tớ bỏ đi cũng vậy."

    "Thật ư?"

    "Thật thế. Cậu thấy tớ có kinh khủng không? Có chai lì không?"

    "Tớ chắc cậu phải có lí do."

    "Lí do của tớ. Hừmm. Mọi thứ đều khá phức tạp trong cái nhà này. Nhưng tớ luôn nghĩ đúng thế, rằng họ là mẹ và bố tớ, và tất nhiên là tớ phải buồn nếu họ chết hoặc tớ không bao giờ thấy họ nữa. Nhưng chuyện lại không xảy ra như thế. Tớ không cảm thấy gì cả. Không buồn. Không cô đơn. Thậm chí còn chẳng mấy nghĩ đến họ. Nhưng có đôi khi tớ nằm mơ. Lúc thì mẹ tớ đang từ trong bóng tối quát mắng vọng ra, lên án là tớ đã vui khi bà ấy chết. Nhưng tớ có vui đâu. Tớ chỉ không buồn. Và nói thật là tớ không nhỏ một giọt nước mắt nào. Vậy mà tớ đã từng khóc suốt đêm khi con mèo của tớ chết, hồi tớ còn bé."

    Sao nhiều khói thế? Tôi tự hỏi. Không thể nhìn thấy ngọn lửa, và khu vực đang cháy có vẻ không lan rộng thêm. Chỉ có mỗi cột khói cứ ngoằn ngoèo bốc mãi lên trời. Cái gì cháy mà lâu vậy?

    "Nhưng tớ không phải là đứa duy nhất có lỗi, Midori tiếp tục. "Đúng là tớ có tính lạnh lùng. Tớ biết thế. Nhưng nếu họ, bố mẹ tớ, đã yêu tớ hơn một chút, có lẽ tớ đã xúc cảm nhiều hơn - và biết buồn, ví dụ thế?"

    "Cậu nghĩ cậu chưa được thương yêu đầy đủ phải không?"

    Cô ngoẹo đầu nhìn tôi. Rồi khẽ gật một cái thật dứt khoát. "Ở đâu đó giữa "chưa đủ" và "không có tí gì". Tớ vẫn luôn thèm được yêu. Dù chỉ một lần thôi. Tớ muốn biết được yêu đầy phần mình nó ra sao, đầy đến mức không thể chịu được nữa ấy. Chỉ một lần thôi. Nhưng họ chưa bao giờ cho tớ cái đó. Chưa bao giờ, dù chỉ một lần. Nếu tớ nũng nịu và xin cái gì đó, họ chỉ biết đẩy tớ đi rồi quát "Không! Tốn tiền quá!" Tớ chỉ có nghe thấy câu ấy. Thế là tớ quyết định phải tìm được ai đó sẽ yêu tớ vô điều kiện ba trăm sáu lăm ngày một năm. Lúc đó tớ mới học tiểu học, nhưng đã quyết định dứt khoát một lần như vậy đấy."

    "Uao?" tôi nói. "Thế cậu đã tìm được ai chưa?"

    "Đấy mới là cái khó," Midori nói. Cô nhìn khói bốc lên một lúc, vẻ nghĩ ngợi. "Có lẽ tớ đã đợi quá lâu. Tớ đang tìm kiếm sự hoàn hảo. Thế mới khó."

    "Đợi một tình yêu hoàn hảo ư?"

    "Không, ngay tớ cũng không ngu đến thế. Tớ đang tìm sự ích kỉ. Ích kỉ hoàn hảo. Nói ví dụ như tớ bảo cậu tớ muốn ăn bánh dâu. Và cậu liền bỏ hết mọi việc đang làm để chạy đi mua nó cho tớ. Rồi cậu hổn hển chạy về, quì gối dâng cái bánh dâu ấy cho tớ. Rồi tớ nói tớ không muốn ăn nó nữa và vứt nó ra ngoài cửa sổ. Đó là cái tớ đang tìm."

    "Tớ không chắc cái đó có liên quan gì đến tình yêu không," tôi nói, hơi ngạc nhiên.

    "Có chứ," cô nói. "Cậu không biết đấy thôi. Có những lúc trong cuộc đời một đứa con gái, những cái như thế lại cực kì quan trọng."

    "Như ném cái bánh dâu ra ngoài cửa sổ ư?"

    "Chính xác! Và khi tớ làm thế, tớ muốn người đàn ông phải xin lỗi tớ. "Midori này, bây giờ thì anh biết rồi". Anh thật là một thằng ngốc! Nhẽ ra anh phải biết là em sẽ không thèm bánh dâu nữa. Tất cả trí thông minh và lòng nhạy cảm của anh chỉ bằng một bãi phân lừa. Để bù đắp cho em, anh sẽ đi mua cho em cái gì khác nhé. Em thích gì nào? Bánh sô-cô-la? Bánh phó-mát?"

    "Rồi sao nữa?"

    "Tớ sẽ hiến cho anh ấy tất cả tình yêu xứng đáng với điều anh ấy đã làm."

    "Tớ nghe thấy điên lắm."

    "Mặc kệ cậu, với tớ, đó mới là tình yêu. Mặc dù không phải ai cũng có thể hiểu được tớ." Midori hơi hơi lắc đầu dụi vào vai tôi. "Với một loại người nào đó, tình yêu bắt đầu từ cái gì đó tí xíu và ngốc nghếch. Từ những cái như thế, hoặc nó không bao giờ bắt đầu được cả."

    "Tớ chưa gặp cô gái nào suy nghĩ như cậu."

    "Khối người đã nói thế với tớ," cô nói, cạo cạo mãi vào cái móng tay. "Nhưng đấy là cách nghĩ duy nhất mà tớ biết. Nói nghiêm chỉnh đấy. Tớ đang nói với cậu nhưng điều tớ tin tưởng. Chưa bao giờ tớ biết là cách nghĩ của tớ khác với mọi người. Tớ không cố tình khác người. Nhưng khi tớ nói thật thì ai cũng cho là tớ đùa hoặc đóng kịch. Lúc ấy, tớ thấy đời chỉ là của nợ mà thôi!"

    "Và cậu muốn chết cháy cho xong hả?"

    "A, không phải, chuyện đó khác. Đó chỉ là chuyện tò mò thôi."

    "Cái gì? Chết cháy à?"

    "Không, tớ chỉ muốn xem cậu phản ứng thế nào," Midori nói. "Nhưng, tớ cũng không sợ chết. Thực đấy. Như ở đây này, cứ thế sặc khói rồi bất tỉnh và chưa kịp gì thì tớ đã có thể chết rồi. Cái đó không làm tớ sợ, so với cái chết của mẹ tớ và mấy người họ hàng khác. Tất cả họ hàng nhà tớ đều chết sau khi đã đau đớn vì những căn bệnh khủng khiếp. Di truyền trong máu rồi. Tớ đoán thế. Luôn luôn là một quá trình lâu dài, thật lâu dài, và cuối cùng thì hầu như không thể biết được họ còn sống hay đã chết nữa kia. Chỉ có đau đớn và chịu đựng mà thôi."

    Midori đặt một điếu Marlboro lên miệng và châm lửa.

    "Kiểu chết đó mới làm tớ sợ. Bóng đen của sự chết gặm dần dần vào vùng sống, và rồi tất cả tối mò không nhìn thấy gì hết, và mọi người xung quanh đều cho rằng mình chết nhiều hơn sống rồi. Tớ ghét cái đó. Không thể chịu được nó."

    Nửa tiếng sau, trận hoả hoạn đã được dập tắt. Người ta đã có vẻ ngăn chặn được nó không lan rộng ra và cũng không có thương vong gì. Chỉ còn một xe cứu hoả ở lại, và đám đông đã giải tán, tiếng người nói râm ran. Một xe cảnh sát ở lại điều khiển xe cộ, ngọn đèn xanh của nó cứ xoay tròn. Hai đám đông đã tụ lại ở mấy cái cột đèn gần đó để xem nhưng hoạt động ở phía dưới.

    Midori có vẻ đã kiệt sức. Người mềm oặt, cô nhìn lên trời và không nói gì nữa.

    "Mệt hả?" tôi hỏi.

    "Cũng chẳng đến nỗi," cô nói. "Tớ chỉ tự tha lổng mình và gian ra thôi. Lâu lắm mới lại làm thế."

    Cô nhìn vào mắt tôi và tôi cũng thế. Tôi quàng tay và hôn cô. Vai cô hơi rung lên rất nhẹ, rồi cô thả lỏng người và nhắm mắt lại trong nhiều giây. Nắng đầu thu làm hàng mi cô đổ bóng xuỏng hai gò má, và tôi có thể thấy đường viền của nó run rẩy.

    Đó là một nụ hôn nhẹ nhàng êm ái, một nụ hôn không có ý sẽ lấn tới nữa. Có lẽ tôi đã không hôn Midori hôm ấy nếu chúng tôi không ở cả buổi chiều trên sân phơi ngoài nắng, uống bia và xem đám cháy, và chắc hẳn là cô cũng cảm thấy như vậy. Sau một thời gian dài cùng nhìn những mái nhà lấp loá và đám khói và bọn chuồn chuồn ngô với nhiều thứ khác nữa, chúng tôi đã cảm thấy cái gì đó ấm áp và gần gụi, và có thể cả hai chúng tôi đã muốn, một cách lờ mờ, lưu giữ cái tâm trạng ấy dưới một hình thức nào đó. Nụ hôn đó là như vậy. Nhưng cũng như mọi nụ hôn khác, không phải nó không có một yếu tố nguy hiểm nhất định.

    Người đầu tiên lên tiếng là Midori. Cô nắm tay tôi và bảo tôi, với một bộ dạng như hơi khó khăn, rằng cô đang đi lại với ai đó. Tôi nói tôi cũng cảm thấy chuyện đó.

    "Cậu có một cô gái mà cậu thích chưa?" cô hỏi.

    "Có," tôi nói.

    "Nhưng cậu vẫn luôn rảnh vào Chủ nhật, phải không nào?"

    "Phức tạp lắm đấy," tôi nói.

    Thế rồi tôi nhận ra rằng màn phép lạ ngắn ngủi của buổi chiều đầu thu ấy đã tan mất rồi.

    Đến năm giờ tôi nói tôi phải đi làm và hỏi Midori có đi uống nước ăn bánh với tôi ở đâu đó không. Cô nói phải ở nhà nhỡ có người gọi đến.

    "Tớ ghét phải đợi ở nhà cả ngày vì một cú điện thoại. Khi có một mình cả ngày, tớ cảm thấy như da thịt mình cứ thối dần tửng tí một - thối và tan rữa ra cho đến khi chỉ còn là một vùng xanh xanh bị hút hết xuống đất. Tất cả những gì còn lại chỉ là mớ quần áo này. Đợi ở nhà cả ngày với tớ là như vậy đấy."

    "Lần sau cậu còn phải đợi thế thì ta sẽ ở với cậu," tôi nói. "Với điều kiện là phải có ăn trưa."

    "Tuyệt," cô nói. "Tớ sẽ thu xếp một trận hoả hoạn nữa làm món tráng miệng."

    Midori không đến lớp Lịch sử sân khấu ngày hôm sau. Sau lớp học, tôi ra nhà ăn và ngồi nuốt bữa trưa nguội ngắt vô vị một mình. Rồi tôi ra ngoài nắng ngồi quan sát cảnh sân trường. Cạnh tôi là hai cô sinh viên đang trò chuyện rất lâu rồi, mà đứng suốt. Một cô ôm cái vợt bóng quần vào ngực âu yếm như ôm con, còn cô kia ôm mấy cuốn sách và một cái đĩa nhạc của Leonard Bernstein. Cả hai đều xinh và có vẻ say sưa câu chuyện lắm. Từ phía toà nhà câu lạc bộ sinh viên vọng đến một giọng nam trầm đang luyện giọng theo gam. Rải rác khắp nơi là những nhóm bốn năm sinh viên một đang trao đổi cái gì đó với nhau, cười nói hò hét ầm ĩ. Ngoài bãi đỗ xe có những tay đang đi patanh ván. Một ông giáo sư với chiếc cặp da trong tay đang vừa đi ngang bãi xe vừa phải tránh bọn đi patanh kia. Trong sân có một cô gái đội mũ sắt quì dưới đất, đang viết những đại tự lên một tấm biển về chuyện đế quốc Mỹ đang xâm lăng châu Á gì đó. Đó là quang cảnh ban trưa bình thường ở trường, nhưng khi tôi ngồi đó và quan sát với một thái độ mới, tôi bỗng nhận ra một điều. Bằng cách riêng của họ, tất cả những con người tôi thấy trước mắt đều có vé hạnh phúc. Họ hạnh phúc thật hay chỉ có vẻ thế thôi thì tôi không biết. Nhưng nhìn bề ngoài thì họ đều hạnh phúc trong cái buổi chiều đẹp trời cuối tháng Chín ấy, và vì vậy mà tôi cảm thấy một nỗi cô liêu rất mới mẻ với mình, như thể tôi là đứa duy nhất ở đó không thực sự là một phần của cảnh trí xung quanh.

    Hãy thử nghĩ xem, trong những năm tháng qua tôi đã từng là một phần của cảnh trí nào? Cảnh cuối cùng mà tôi nhớ được là một quán bi-a gần hai cảng, nơi Kizuki và tôi chơi với nhau trong tinh thần hoàn toàn bằng hữu. Kizuki đã chết đêm hôm đó, và từ ấy một ngọn gió lạnh gay gắt đã ngăn cách tôi với thế giới.

    Thằng bé Kizuki này sự tồn tại của nó có nghĩa gì đối với tôi? Tôi không thể trả lời được câu hỏi đó. Tôi chỉ biết rằng - và tuyệt đối chắc chắn - cái chết của Kizuki đã mãi mãi lấy đi một phần tuổi mới lớn của tôi. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì, và hậu quả của nó ra sao, thì tôi không thể tìm hiểu được.

    Tôi ngồi đó rất lâu, quan sát sân trường và những con người qua lại trên đó, và cũng hy vọng sẽ thấy Midori. Nhưng cô không xuất hiện, và khi giờ nghỉ trưa đã hết, tôi vào thư viện chuẩn bị cho lớp học tiếng Đức của mình.

    Nagasawa đến phòng tôi chiều thứ Bảy ấy và rủ tôi lại đi chơi đêm ngoài thành phố. Hắn sẽ thu xếp thông hành qua đêm cho tôi. Tôi nói sẽ đi. Cả tuần lễ đó đầu óc tôi đã như bùn loang và tôi đang sẵn sàng ngủ với bất kì người nào, bất kể là ai.

    Cuối chiều, tôi tắm rửa, cạo mặt và mặc quần áo sạch sẽ - sơ-mi polo và áo ngoài vải bông - sau đó ăn tối với Nagasawa ở nhà ăn rồi hai đứa lấy xe buýt đến Shinjuku. Chúng tôi đi bộ quanh một khu phố tấp nập một lúc, rồi vào một quán bar và ngồi đợi một cặp gái thích hợp. Bọn con gái thường đi thành từng cặp vào quán bar này - chỉ trừ tối hôm đó. Chúng tôi ở đó gần hai tiếng, nhấm nháp whisky pha Soda với tốc độ không để cho mình say. Cuối cùng, hai cô gái trông có vẻ thân thiện vào ngồi ở quầy và gọi một cốc gin pha chanh với một cốc gin Mexico pha chanh có muối lăn miệng cốc. Nagasawa đến chỗ họ ngay, nhưng các cô nói đang chờ bạn trai rồi. Dù sao, cả bốn chúng tôi vẫn được một hồi tán phét vui vẻ cho đến khi bạn tình của hai cô xuất hiện.

    "Có lẽ mỗi năm một lần," hắn thú nhận.

    Thực tình tôi cũng chẳng thấy thèm muốn gì nữa.

    Lang thang trong khu Shinjuku trong một đêm thứ bảy ầm ĩ, quan sát cái năng lượng bí hiểm phát ra từ hỗn hợp tình dục và rượu cồn, tôi bắt đầu cảm thấy rằng cái thèm muốn của tôi chả là cái thá gì.

    "Cậu làm gì bây giờ hả, Watanabe?"

    "Có lẽ tớ đi xem phim," tôi nói. "Lâu lắm rồi tớ chưa xem phim."

    "Vậy thì tớ sẽ đến chỗ Hatsumi," Nagasawa nói. "Cậu cảm phiền nhá."

    "Có gì đâu," tôi nói. "Sao tớ lại phiền chứ."

    "Nếu cậu thích, tớ có thể giới thiệu cậu với một cô sẽ cho cậu ngủ cùng đêm nay."

    "Thôi, thực tình là tớ đang muốn xem phim."

    "Xin lỗi nhá," Nagasawa nói. "Tớ sẽ bù cho cậu vào dịp khác."

    Rồi hắn biến vào đám đông. Tôi đến một cửa hàng ăn nhanh làm một chiếc bánh kẹp với ít cà-phê cho tỉnh táo, rồi đi xem The Graduate ở một rạp chiếu phim cũ kỹ mở cửa hai tư giờ một ngày. Phim cũng chẳng hay đến thế, nhưng vì không biết làm gì hơn nên tôi vẫn ngồi lại và xem nó lần nữa. Ra khỏi rạp lúc bốn giờ sáng, tôi lang thang dọc những con phố giá lạnh ở Shinjuku, nghĩ ngợi mông lung.

    Khi đi bộ đã mệt, tôi vào một tiệm cà-phê mở suôt đêm và ngồi đợi chuyến tàu sáng đầu tiên với một cuốn sách và một tách cà-phê. Chẳng mấy chốc, tiệm cũng đông toàn những người như tôi, đang đợi những chuyến tàu đầu tiên trong ngày. Một người hầu bàn tới lễ phép hỏi xem tôi có đồng ý cho khách khác ngồi cùng bàn không. Tôi bảo không sao. Ai ngồi trước mặt tôi chẳng được tôi chỉ đang đọc sách mà thôi.

    Hoá ra lại là hai cô gái. Trông cũng trạc tuổi tôi. Không cô nào tuyệt thế giai nhân, nhưng cũng chẳng tệ.

    Cả hai đều ăn mặc và trang điểm một cách kín đáo: chắc chắn họ không phải loại hay lang thang ở Shinjuku vào lúc năm giờ sáng thế này. Tôi đoán họ chỉ bị lỡ mất chuyến tàu cuối cùng thôi. Họ có vẻ yên tâm ngồi với tôi: tôi ăn mặc tử tế, đã cạo mặt tối hôm trước, và nhất là tôi lại đang chăm chú đọc Núi Thiêng của Thomas Mann.

    Một cô có khổ người đã có thể gọi là to lớn. Cô mặc một cái áo khoác ngắn màu xám, quần bò trắng, tay cầm một cuốn sách bỏ túi to bìa nilông, và đeo hoa tai lớn hình vỏ sò. Bạn cô thì nhỏ người, đeo kính, mặc áo len cài khuy xanh da trời ra ngoài sơ-mi carô, và có một cái nhẫn đồi mồi. Cô nhỏ người có thói quen bỏ kính ra và ấn ấn vào hai mắt bằng đầu ngón tay.

    Cả hai gọi cà-phê sữa với bánh ngọt mà họ ăn mãi chưa hết vì còn mải thì thầm tranh cãi chuyện gì đó có vẻ nghiêm trọng. Cô lớn nghiêng nghiêng đầu nhiều lần, còn cô nhỏ thì lắc đầu cũng nhiều lần như thế. Tôi không nghe thủng được câu chuyện của họ vì máy stereo đang chơi rất to các bài hát của Marvin Gaye hoặc Bee Cees hoặc cái gì đó, nhưng có vẻ như cô nhỏ đang giận dữ hoặc cáu bẳn còn cô lớn thì đang cố an ủi. Cứ đọc một đoạn sách tôi lại liếc sang phía họ một tí.

    Ôm chặt cái túi đeo vai vào ngực, cô nhỏ đi vào nhà vệ sinh nữ, và lúc đó cô lớn quay sang nói với tôi.

    "Xin lỗi làm phiền anh, nhưng anh có biết có quán nào trong khu này vẫn còn bán rượu giờ này không ạ"

    Bị bất ngờ, tôi đặt sách xuống và hỏi, "Sau năm giờ sáng ư?"

    "Vâng…."

    "Nếu cô hỏi tôi, thì năm giờ hai mươi sáng mọi người đều đã trên đường về nhà để giã rượu và đi ngủ rồi."

    "Vâng, tôi củng biết thế," cô nói, hơi có vẻ lúng túng, "nhưng bạn tôi nói cô ấy cần uống rượu. Cũng là quan trọng đấy ạ."

    "Có lẽ các cô chỉ có thể về nhà uống rượu thôi."

    "Nhưng tôi lại phải đi chuyến tàu bảy giờ rưỡi về Nagano."

    "Vậy cô phải tìm một máy bán đồ uống và một chỗ tốt để ngồi. Chắc các cô chỉ có thể làm như vậy."

    "Tôi biết hỏi thế này là quá đáng, nhưng anh có thể đi cùng không ạ? Chỉ có hai đứa con gái thì thực không thể làm thế được."

    Tôi đã có những trải nghiệm bất thường ở Shinjuku, nhưng chưa bao giờ được hai cô gái lạ mời uống rượu vào lúc năm rưỡi sáng. Từ chối có thể sẽ còn rắc rối hơn, mà thời gian thì không thành vấn đề, thế là tôi mua một ôm rượu sakê với đồ nhắm ở một máy bán hàng gần đó, và ba đứa chúng tôi vào một bãi đậu xe vắng ngắt cạnh cửa ra phía tây của ga tàu để làm một bữa nhậu tuỳ hứng.

    Hai cô nói họ đã thành bạn vì cùng làm với nhau ở một hãng du lịch. Cả hai đều đã tốt nghiệp đại học năm nay và bắt đầu đi làm. Cô nhỏ có một bồ trai đã cặp vớỉ nhau được một năm, nhưng vừa mới phát hiện ra anh chàng vẫn ngủ với một cô khác và chuyện này làm cho cô rất đau khổ. Cô lớn nhẽ ra đã phải về vùng núi Nagano từ đêm trước để dự đám cưới anh trai, nhưng đã quyết định ở lại qua đêm với người bạn đang đau khổ và sẽ đi chuyến tàu tốc hành đầu tiên sáng Chủ nhật.

    "Chuyện của cô thật tệ," tôi nói với cô nhỏ, "nhưng làm sao cô biết được là bạn trai cô đang ngủ với người khác?"

    Vừa nhấp từng ngụm sakê nhỏ, cô gái vừa luôn tay rứt cỏ dưới chân.

    "Tôi không phải làm gì cả," cô nói. "Tôi mở cửa phòng anh ta, và anh ta đang ở đó, làm chuyện ấy.

    "Khi nào vậy?"

    "Đêm hôm kia."

    "Sao lại thế được? Cửa không khoá à?"

    "Đúng thế."

    "Tại sao anh ta không khoá cửa?"

    "Tôi biết thế quái nào được!"

    "Ồ, chị ấy biết phải nghĩ làm sao bây giờ?" cô lớn nói, có vẻ thật sự lo lắng cho bạn. "Chắc chị ấy phải choáng lắm. Anh có thấy thế là kinh khủng không?"

    "Tôi thực không biết nói sao bây giờ," tôi đáp. "Cô phải nói chuyện hẳn hoi với bạn trai cô. Sau đó là vấn đề cô có tha thứ cho anh ta hay không."

    "Chẳng ai hiểu tình cảnh của tôi cả," cô nhỏ cắm cảu, tay vẫn nhỏ cỏ.

    Một bầy quạ xuất hiện ở phía tây và lượn trên một cửa hàng bách hoá lớn. Lúc bấy giờ trời đã rạng. Sắp đến giờ tàu đi Nagano, nên chúng tôi đem chỗ sakê còn lại cho một ga vô gia cư dưới cầu thang cửa ra phía Tây, mua vé và cùng vào tiễn cô lớn đi. Sau khi tàu chạy rồi, cô nhỏ và tôi cuối cùng thể nào lại vào một khách sạn ở gần đó. Cả hai đều chẳng có nhu cầu đặc biệt gì phải ngủ với nhau, nhưng dường như đều thấy cần phải thế để kết thúc mọi chuyện.

    Tôi cởi quần áo trước và ngồi trong bồn tắm uống bia như trả thù đời. Cô vào ngồi với tôi và cũng uống như thế. Hai đứa duỗi người trong nước và im lặng nốc bia.

    Hình như chúng tôi không thể say được, mà cũng chẳng thấy buồn ngủ. Da thịt cô rất trắng trẻo mịn màng, và cô có một đôi chân đẹp. Tôi ngỏ lời khen đôi chân, nhưng câu "Cảm ơn" của cô nghe như một tiếng cằn nhằn.

    Nhưng khi đã vào giường, cô bỗng thành một con người khác hẳn. Cô đáp ứng lại từng động chạm nhẹ nhàng nhất của tôi, oằn oại và rên rl. Khi tôi vào trong cô, cô bấu chặt móng tay vào lưng tôi, và khi lên đến cực cảm, cô gọi tên anh chàng kia đúng mười sáu lần. Tôi tập trung đếm những tiếng gọi ấy để trì hoãn cực cảm của chính mình. Rồi hai đứa lăn ra ngủ.

    Lúc mười hai giờ rưỡi tôi thức dậy thì cô đã đi rồi.

    Không thấy mảnh giấy nào viết để lại. Một bên đầu tôi nặng trịch rất lạ vì say rượu vào cái giờ oái oăm nọ. Tôi tắm hương sen cho tỉnh người, cạo mặt và trần truồng ngồi trên một cái ghế, uống một chai nước quả lấy trong tủ lạnh và điểm lại những sự kiện đêm hôm trước. Cảnh nào cũng có vẻ không có thật và xa xôi lạ lùng, như thể tôi đang nhìn chúng qua hai ba lần kính, nhưng chúng đều là những chuyện đã thực sự xảy đến với tôi. Những cốc bia vẫn còn trên bàn kia, và một cái bàn chải đánh răng đã dùng còn lăn lóc cạnh bồn rửa mặt.

    Tôi ăn bữa trưa nhẹ ở Shinjuku rồi vào trạm điện thoại gọi cho Midori Kobayashi, nhớ đâu hôm nay cô lại chẳng ở nhà đợi cú điện thoại ấy. Tôi để máy reo mười lăm lần mà vẫn không ai trả lời. Hai mươi phút sau tôi gọi lại nhưng cũng vẫn thế. Tôi lấy xe buýt về học xá.

    Một phong thư phát chuyển đặc biệt đang đợi tôi trong hộp thư bên cửa vào. Thư của Naoko.

    hết chương 4
    thay đổi nội dung bởi: sarujun, 06-01-2011 lúc 12:41 AM

  16. The Following 2 Users Say Thank You to bel_tigon For This Useful Post:

    feng (30-07-2009), sarujun (05-01-2011)

Trang 1/3 1 2 3 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 20
    Bài mới gởi: 15-08-2018, 04:07 PM
  2. Trả lời: 14
    Bài mới gởi: 27-01-2014, 07:01 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 24-01-2014, 09:47 PM
  4. Trả lời: 35
    Bài mới gởi: 02-09-2012, 03:37 PM
  5. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 01-11-2011, 11:20 AM

Bookmarks

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •