The Tale of the Heike
Heike Monogatari
Volume 1
Book 1-6
Translated by: Hiroshi Kitagawa, Bruce T.Tsuchida
With a foreword by Edward Seidensticker
University of Tokyo Press
Supported by the Toyota foundation
Japan – Tokyo
Truyện kể Hâykê (Nhật Bản)
Tập I (Cuốn 1 đến cuốn 6)
Nhà xuất bản Khoa học xã hội Việt Nam
Hà Nội – 1989
LỜI NÓI ĐẦU
Truyện về dòng họ Hâykê xảy ra vào nửa cuối thế kỷ 12, vào đỉnh cao của những cuộc loạn lạc, đã chấm dứt quyền bá chủ của dòng họ Fugiwara và thời đại Hâyan, các phe phái trong triều đình tìm cách có tiếng nói của mình thông qua các bộ tộc quân sự ở các tỉnh, và lúc này họ bắt đầu hiểu rằng người chiến thắng thực sự ơhair là bộ tộc mạnh nhất. Hai cuốn sử biên niên ngắn hơn trước đó là cuốn Truyện kể về Hôghên và Truyện kể về Hâygi, đã mô tả những cuộc xung đột vũ trang vào năm 1156 và 1159, từ những cuộc xung đột đó, bộ tộc Taira, hay còn gọi là Hâykê, đã toàn thắng. Năm 1167 Taira Kiyômôri, tộc trưởng, trở thành Tể tướng. Năm 1181 Kiyômôri chết. Sau đó dòng họ Hâykê sa sút nhanh chóng, và đến năm 1185, bộ tộc này đã bị bộ tộc Minamôtô, hay còn gọi là Ghêngi, tiêu diệt gần sạch ở trận Đan-nô-u-ra.
Câu chuyện về niềm vinh quang ngắn ngủi, sớm nở tối tàn của dòng họ Hâykê giống như một câu chuyện răn dạy bất tuyệt về tính phù du của sự vật, về bài học rút ra từ tiếng chuông của đền thờ Ghiôn và từ sắc thắm của những bông hoa bồ đề trong đoạn mở đầu rất nổi tiếng của truyện kể Hâykê. Không có một thập truyện nào lại kích thích được trí tưởng tượng của người Nhật bằng những truyền thuyết và sự kiện về Ghempây (chữ ghép của hai dòng họ Gheengi và Hâykê). Đây là nguồn quan trọng duy nhất cho các vở kịch Nô, các nhân vật Ghempây nổi bật trong các sân khấu Kabuki múa rối, cũng như trong phim ảnh, và trong những năm sau một nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng kể lại cốt truyện này đã được làm phong phúc thêm qua nhiều thế kỷ, đã làm cho số lượng xuất bản của một tờ tuần báo lên vài lần, và như dân gian thường nói, tăng giá giấy một cách giả tạo.
Truyện về dòng họ Hâykê, liên quan chủ yếu tới việc sụp đổ của dòng họ Hâykê. Một vài mẩu chuyện trước thời kỳ đó (như cái chết của hoàng đế Nôgiô trong Cuốn 1 chẳng hạn) tiếp theo ngay việc dòng họ Hâykê chuẩn bị lên nắm quyền, nhưng phần lớn câu chuyện đề cập tới ba hoặc bốn năm trước khi Kiyômôri qua đời và quãng thời gian giữa sự kiện đó, cùng trận Đan-nô-u-ra. Cuốn sách cuối cùng, Cuốn 12, kết thúc bằng việc xử tử hình Rôkudai, người cháu nội đích tôn của Kiyômôri và cũng là người tộc trưởng cuối cùng của bộ tộc Hâykê, vào khoảng những năm cuối cùng của thế kỷ 12; và một cuốn phụ bản mô tả những năm cuối cùng của hoàng hậu Kênrâymôn-In của triều đại Hâykê và kết thúc bằng cái chết của bà năm 1191, theo như gia phả của dòng họ Hâykê. Nhưng thật ra, nhiều người cho rằng đó là năm 1213.
Về nguồn gốc tác giả và việc soạn cốt truyện Hâykê, tất cả hầu như vẫn còn là một điều bí ẩn, chỉ sau trận Đan-nô-u-ra một thế kỷ rưỡi mới có một bài miêu tả rõ ràng nhất, và ít nhất là một thế kỷ sau sự kiện ấy mới có người soạn ra cốt truyện này. Chính trong 226 chi tiết nhỏ đã dựng nên “Những bài tiểu luận viết khi nhàn rỗi” của Yôsida Kênđô, những chi tiết đó được tập hợp vào khoảng những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 14. Kênđô cho chúng ta biết rằng một quan chức nhỏ tên là Yukinaga đã được sự bảo trợ của Gichin, một nhà sư nổi tiếng cuối thời kỳ Hâyan, đầu thời kỳ Kamakura, và theo lệnh của nhà sư này mà ông ta dựng lại truyện Hâykê, rồi dạy lại cho một nhà sư mù tên là Sôbưchư, có thể là nhà sư này đã kể truyền miệng lại cho nhiều người.
Về niên đại cũng có vẻ chưa chính xác. Có một bằng chứng có tính tư liệu là một viên quan tên là Yukinaga sống ở thế kỷ 13. Và hình như những câu chuyện về các cuộc chiến tranh Ghem-pây xảy ra lòng vòng trong những thập kỷ sau trận Đan-nô-u-ra. Vậy theo Kênkô đã mô tả vắn tắt thì đâu là quá trình thực sự xảy ra sự việc? Ở đây có vẻ như có một lý do bắt buộc nào đó phải chấp nhận sự mô tả của Kênkô như là một sự gần đúng lờ mờ với thực tế. Lịch sử của triều đại Hâykê ghi trong văn bản thì cực kỳ phức tạp, mà điều phức tạp oái oăm nhất là giải quyết mối quan hệ giữa truyền miệng với tài liệu ghi chép sử. Rất có thể là, một bản viết tay thực tế là ghi lại những điều một nhà sư mù nhớ lại, và ông ta trở thành người tiền bối tinh thần và nghệ sĩ của những nhà sư mù khác, mà trong những thế kỷ còn lại của nước Nhật trước thời hiện đại, vẫn kiếm sống bằng nghề kể chuyện; và cũng rất có thể là vào khoảng đầu thế kỷ 13.
Chắc chắn là ít nhất có hai trường dạy thơ ca Hâykê (nếu có thể gọi như vậy) đã xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ 14, và một người mù kể chuyện Hâykê tên là Kakuichi, cai quản một trong hai trường đó và chết năm 1371, đã cống hiến những năm cuối đời viết ra một bản cuối cùng cho hậu thế. Bản của Kakuichi, mặc dù không còn tồn tại, đã trở thành bản mẫu cho các bản được lưu truyền rộng rãi hơn trong các thế kỷ gần đây, kể cả bản mà chúng ta dùng để dịch này. Việc sử dụng các câu chuyện về hoàng hậu Kênrâymôn-In làm phụ bản là đặc điểm của các văn bản của Kakuichi. Vấn đề là, khi nào và tại sao nó lại tách khỏi Cuốn 12, cuốn này ngắn hơn nhiều so với độ dài trung bình của các cuốn khác, là một điều đã được tranh cãi nhiều, nhưng chưa có kết quả cuối cùng.
Chương đầu tiên mở đầu bằng tiếng chuông rung ở Ấn Độ, và chương cuối cùng, trong đó có cái chết của hoàng hậu Kênrâymôn-In, lại mở đầu bằng tiếng chuông bên ngoài Kyôtô. Giữa hai chương đó là một câu chuyện ngụ ngôn dài về cái có sinh có tử của muôn loài, lời sấm truyền của Phật mà người Nhật rất thích. Một cảm giác ngọt ngào – buồn tẻ của sự bất lực đã bao trùm tất cả, mà tôn giáo cũng như những người mộ đạo Phật hiện nay, cho rằng chúng ta chẳng làm được gì mấy cho bản thân và hãy nên tin vào một thế lực huyền bí.
Gắn với cái đó là thuyết nhân quả, Kiyômôri, con người của những chương đầu, đã tỏ ra ngạo nghễ và độc ác, hắn có tội với cả bộ tộc mình. Nếu tác giả, hoặc các tác giả, có thiện cảm hay đồng tình với dòng họ Hâykê hơn là với dòng họ Ghêngi, thì họ cũng không có thiện cảm với Kiyômôri, nguyên nhân của toàn bộ thảm họa. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một câu chuyện được kể để mua vui và để người kể chuyện kiếm miếng ăn, thì câu chuyện đó sẽ được tô vẽ thêm rất nhiều, và không ở đâu việc tô vẽ thêm thắt lại rõ nét hơn là trong việc kể lại chuyện Kiyômôri. Ông ta không thể là người đáng yêu, nhưng ông ta sẽ không xuất hiện trong chuyện Hâykê này nếu không được coi là một nhà chính khách. Hầu hết những công trình của ông ta nổi bật nhất là việc rời kinh đô trong Cuốn 5, đã gợi mở những khát vọng lớn lao vượt qua biển cả vươn ra thế giới bên ngoài. Yôritômô, tộc trưởng bộ tộc Ghêngi, đã rút về những căn cứ vở phía đông nước Nhật một khi ông ta đã dành thắng lợi hoàn toàn. Dù sao mục đích của câu chuyện này cũng không phải là nhằm đánh giá lịch sử một cách vô tư, mà là nhằm gây cảm xúc và giải trí.
Câu chuyện dài này có thể chia làm ba phần, tập trung vào Kiyômôri, vào Yôsinaka của dòng họ Ghêngi, người đã buộc dòng họ Hâykê phải rời bỏ kinh đô và đích thân mình chiếm lấy; và cuối cùng là kể về Yôsichưnê, thiên tài quân sự của dòng họ Ghêngi, người đã hoàn thành việc tiêu diệt dòng họ Hâykê. Nên, với cách nhìn A-rít-xtôt, người ta xem xét câu chuyện dài này để tìm ra phần mở đầu, phần giữa và phần kết, thì đỉnh cao của chuyện là việc dòng họ Hâykê sơ tán khỏi kinh đô, trong những chương kết thúc của Cuốn 7.
Hình thức của Truyện kể Hâykê có thể được mô tả theo một cách khác. Về mặt cấu trúc, nó có một sự giống nhau nhất định với lịch sử của các triều đại Trung Hoa, trong đó lý giải liên tục về các triều đại mà nó đề cập, được bổ sung bằng những chương phụ mà người ta dễ nhận thấy nhất qua tiểu sử của các chính khách nổi tiếng. Sự khác nhau cơ bản là cả hai phương pháp đều quyện vào nhau trong Truyện kể Hâykê. Nằm trong các sự kiện của câu chuyện dài này là các chuyện kể về cuộc đời của các nhân vật nổi tiếng, hay những sự kiện trong cuộc đời của họ, thường là về những phần buồn thảm hay bi kịch trong cuộc đời của họ.
Kể từ đời Minh Trị, khi người Nhật bắt đầu viết về lịch sử văn học của họ, có một xu hướng khá mạnh muốn nhấn mạnh những phẩm chất mang tính “anh hùng ca” của Truyện kể Hâykê. Ở một mức độ, những lời khẳng định đó đã có một cách nhìn thụ động, nếu không nói là giả tạo, về những phẩm chất này. Bởi vì mỗi nền văn học đều có những bản anh hùng ca của nó. Văn học Nhật Bản cũng vậy, cũng cần có một hay nhiều bản anh hùng ca. Cho nên dù vào thế kỷ thứ 7, thứ 8, thơ ca có nở rộ phát triển, nhưng cũng không thể tìm trong những bài này có cái gì gần gũi với bản anh hùng ca. Bởi vậy, phải tìm ở những thế kỷ sau mới thấy những bản hùng ca. Còn có thể tìm ở đâu hơn là trong một loạt các sự kiện chiến tranh trong toàn bộ lịch sử của Nhật Bản?
Người ta không phủ nhận rằng câu chuyện về triều đại Hâykê có tính biên niên sử (theo cách gọi của lịch sử học Trung Hoa gọi là “Biên niên sử cơ bản”) không có tầm cỡ của nó trong hầu hết văn học Nhật Bản. Những trận chiến đấu có ở mọi nơi, tiếng vang của nó lớn hơn là bản thân tầm cỡ của những cuộc chiến đó, bởi vì quân số của các lực lượng đối địch mà người ta xác định được đôi khi không dễ dàng được chấp nhận. Vì mục đích lớn hơn trong bất cứ sự kiện nào, những đám mây chết chóc được tụ họp lại từ một thảm bại pha chút khôi hài của trận chiến sông Fugi, từ đó người cháu nội của Kiyômôri xuất hiện như là một trong những viên chỉ huy ngớ ngẩn trong lịch sử quân sự, cho mãi đến những cảnh khủng khiếp cuối cùng của trận Đan-nô-u-ra.
Thế nhưng, chính những giai thoại ngoài lề, có ít tính anh hùng ca hơn, đáng buồn thay lại mang tính trữ tình, thì lại được người ta nhớ dai nhất. Một mớ những giai thoại như vậy tập trung quanh việc dùng họ Hâykê rời bỏ kinh thành: như chuyện ấu chúa, con trai của Hoàng hậu Kênrâymôn-In rời khỏi thành lại bị quan phò tá Fugiwara bỏ quên; Kôrêmôri, nhà chỉ huy ngớ ngẩn ở trận sông Fugi, chào tạm biệt vợ con; Munêmôri, trong những chương đầu, một người không hoàn toàn tử tế lại phóng thích một số chư hầu thần phục mình và gia đình họ, và đưa họ về quê ở các tỉnh miền đôngl Tađanôri tự đưa mình vào cõi chết và hy vọng rằng một vài bài thơ của mình sẽ cứu sống mình (và điều đó chứng minh rằng, có lẽ, đối với những chiến binh thì cái trữ tình cũng quan trọng như chất anh hùng ca vậy); Chưnêmaxa để lại cây sáo được giải cho sư thầy chùa Ninnai, hy vọng rằng, vào một ngày hạnh phúc hơn, sẽ đến nhận lại; và Xađayôsi, một môn hạ của nhà Hâykê, đã đào mồ lấy xương cốt của chủ mình, sợ rằng dòng họ Ghêngi sẽ làm ô uế.
Những câu chuyện tương tự của những kẻ chiến bại đã tô đậm cốt truyện dễ nhớ đến nỗi đã trở thành một phần dân ca Nhật Bản. Những chuyện này nhiều đến nỗi người ta có cảm giác rằng, cách chắc chắn nhất để người Nhật ngưỡng mộ và quý mến lại phải bị đại bại. Nhưng có lẽ dễ nhớ nhất vẫn là những câu chuyện về những người đàn bà sầu não: Ghiô và địch thủ đáng yêu của bà là Hôtôkê, Kôgô và Yôkêbuê và Tômôe v.v.., tất cả đều đã than khóc nỉ non và trót lầm lỡ yêu những người đàn ông có nhiều tham vọng.
“Trữ tình” là một trong những từ ngữ khó nắm bắt nhất trong lịch sử văn học và phê bình văn học; nhưng ai cũng biết việc sử dụng khác nhau của trữ tình, có vẻ như sẽ nhấn mạnh được tính khúc chiết và việc truyền đạt cảm xúc. Thật lý tưởng nếu nó có thể nhấn mạnh cảm xúc trước việc thiếu tình tiết và nét đặc sắc; nhưng hầu hết đều công nhận rằng những bài dân ca là một thể loại trữ tình. Những giai thoại về những chiến binh bại trận và những người đàn bà sầu não trong Truyện kể Hâykê tự nó cũng cho thấy rất giống các bài dân ca. Dù những giai thoại này ngắn gọn, dù ít nhiều có thể mang những tình tiết rung động lòng người, nhưng nó vẫn không có được đặc tính riêng mà mối quan tâm chính của người kể thường chỉ là truyền đạt cảm xúc và lòng thương hại. Những từ như “anh hùng ca” hoặc “mang tính anh hùng ca” không phải là bị bỏ quên trong khi tìm cách đánh giá chất văn học của tác phẩm Hâykê. Nếu coi đây là một thiên anh hùng ca thì lại không ổn. Mà cái hay nhất của tác phẩm thì lại không tách rời khỏi truyền thống trữ tình, nét đặc trưng của toàn bộ nền văn học Nhật Bản.
Edward Seidensticker.
LỜI TỰA CỦA NGƯỜI DỊCH
(từ bản tiếng Nhật sang tiếng Anh)
Truyện kể Hâykê là một trong những tác phẩm văn xuôi cổ điển lớn nhất của văn học Nhật Bản và được coi là lớn thứ hai, chỉ đứng sau Truyện kể Ghêngi. Tuy nhiên đặc điểm của hai cuốn này hoàn toàn khác nhau. Truyện kể Ghêngi là một cuốn tiểu thuyết được viết ra vào đầu thế kỷ 11, tác giả là một nữ quan triều đình, bà Muraxaki Sikibu (978-1016), trên cơ sở những điều đã trải qua trong triều Hayan (791-1185), bà đã sáng tác một tác phẩm hư cấu trữ tình. Truyện kể Hâykê thì ngược lại, là một bản hùng ca của thế kỷ 13, dựa trên những sự kiện lịch sử có thật. Đây là một tác phẩm do nam giới soạn ra và được các nhà sư mù kể lại trong khi hát rong và đệm bằng những điệu nhạc của cây đàn tì bà (1). Các nhà sư mù chơi đàn tì bà đã đi lang thang khắp các nẻo đường đất nước kể lại chuyện này ở mọi nơi, trong phố xá, nơi chùa chiền, đền thờ miếu mạo, hoặc bất cứ nơi nào có khán giả. Truyện kể Hâykê là một tác phẩm truyền miệng được đánh giá thông qua chất lượng âm nhạc, tác động có tính chất kịch, và những lời giáo huấn của đức Phật. Truyền thống văn truyền miệng này được tiếp nối cho tới cuối thời kỳ Êđô (1600-1868) và nó tự biến mất trước dòng thác của nền văn minh hiện đại.
Cơ sở lịch sử của câu chuyện
Những cuộc chiến tranh giữa hai dòng họ Ghêngi và Hâykê vào nửa cuối thế kỷ 12 đã đánh dấu một chương cách mạng về nghệ thuật sân khấu trong lịch sử Nhật Bản (1). Đó là một thời kỳ hỗn loạn khi mà các ông vua trị vì đất nước chỉ là những kẻ bù nhìn. Từ thế kỷ 8, quyền cai trị thực sự nằm trong tay các triều thần thuộc dòng họ Fugiwara. Địa vị chính trị cao mà họ khôn khéo đạt được là bằng cách gả con gái của dòng họ mình cho những người thuộc hoàng tộc. Quyền lực của dòng họ Fugiwara tuy nhiên vẫn phải dựa vào sức mạnh kinh tế của những của cải mà họ có được trong cả nước. Khi mà ảnh hưởng của họ ở các tỉnh yếu dần đi thì sự vinh hiển của họ cũng dần phai nhạt. Để thiết lập lại quyền lực, họ đưa quân ra trấn giữ những vùng này. Cánh quân sự làm phó cho các viên quan cai trị địa phương và bắt đầu xuất hiện một lớp quý tộc cấp tỉnh trong thế kỷ 10.
Một số nhà quân sự trên thực tế xuất thân từ dòng dõi quyền quý, đã tuyên bố rằng họ vốn thuộc dòng dõi các đời vua. Kết quả là số lượng các hoàng thân tăng lên không ngừng, cho nên ngân quỹ quốc gia khó có thể chịu được gánh nặng này. Để tìm ra cách gỡ, các vị hoàng thân được trao các chức vụ cai trị cấp tỉnh và đặt lại tên của dòng họ, ví dụ như Minamôtô hoặc Taira (hay từ này đọc theo âm Hán là “Ghêngi” và “Hâykê”). Hai dòng họ Ghêngi và Hâykê đã trở thành những cánh quân thực sự hùng mạnh và có vai trò quan trọng ngày càng tăng trong chính phủ trung ương, dòng họ Ghêngi thì liên kết với gia đình Fugiwara, còn dòng họ Hâykê thì đi với các hoàng đế đã thoái vị.
Với việc chính quyền trung ương đang trong tình trạng lộn xộn, và nhằm ngăn cản việc thống trị của gia đình Fugiwara, hoàng đế Sirakawa (1053-1129), sau khi thoái vị năm 1086, đã biến cung điện của mình thành một trung tâm quyền lực thực sự, bất chấp là hoàng đế Hôrikawa vẫn còn đang trị vì. Tiền lệ này do Sirakawa đặt ra đã được các vị vua sau đó tiếp tục, Tôba (1103-1156) và Gô-Sirakawa (1127-1192). Nhằm liên kết với các thế lực tăng lữ hùng mạnh để được Phật tổ phù hộ cho nhiều hơn, những vị vua này sau khi thoái vị đã khoác áo nhà sư và trở thành các Tọa quan Thượng hoàng. Chế độ cai trị hai cực này đã gây ra sự tranh cãi bên trong hoàng tộc giữa hoàng đế đương nhiệm và hoàng đế đã thoái vị. Vào thế kỷ 12, ba thế lực nắm giữ ruộng đất – gia đình hoàng tộc, gia đình Fugiwara và các giới tăng lữ - đã sa vào các cuộc đụng độ về lợi ích. Đó là thời điểm để cánh quân sự nổi lên. Vào lúc đó, Kiyômôri, tộc trưởng của Hâykê từ năm 1153 tới 1181, đã xuất hiện nổi bật nhất.
Năm 1150, cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa hoàng đế đã thoái vị Xutôku và hoàng đế đang trị vì là Go-Sirakawa đã kết thúc bằng cuộc loạn Hôghên, và tạo chỗ đứng cho Kiyômôri can thiệp vũ trang vào các công việc triều đình, có lợi cho hoàng đế Gô-Sirakawa. Kiyômôri và Gô-Sirakawa đã thắng. Bên bại trận là Tamêyôsi của dòng họ Ghêngi, ông này đã bị xử tử hình sau cuộc loạn, do đó quyền lực của dòng họ Ghêngi bị giảm đi rất nhiều trong triều đình. Trong cuộc loạn này, con trai của Tamêyôsi là Yôsitômô là người duy nhất trong dòng họ Ghêngi đứng về phía Kiyômôri. Khi đất nước thanh bình, y không hài lòng về mức thưởng không tương xứng với công lao của mình. Năm 1159, Yôsitômô đã nổi loạn, gọi là cuộc loạn Hâygi, để chống lại Kiyômôri. Kiyômôri lại toàn thắng, và giành toàn bộ quyền hành trong triều đình Gô-Sirakawa, người này đã thoái vị nhường ngôi cho Nigiô năm 1158 và trở thành Tọa quan Thượng hoàng năm 1169. Bước tiến nhanh của Kiyômôri tới quyền lực, được mô tả trong những chương đầu của Truyện kể Hâykê, thật là sửng sốt.
Kiyômôri là người đầu tiên của giới võ sĩ đạo thành đạt về quyền lực. Giống như những nhà quý tộc của gia đình Fugiwara, ông tìm cách tăng uy thế và vinh hiển của gia đình bằng cách chiếm những vị trí cao trong triều đình và gả các con gái cho gia đình hoàng tộc và gia đình Fugiwara. Ông trở thành Tể tướng và các con trở thành các quan thượng thư, mười sáu người thân tộc trở thành những nhà quý tộc cấp cao, ba mươi người trở thành các quan chức triều đình và rất nhiều người khác được cử cai trị các tỉnh và cầm đầu các đội thị vệ. Vinh quang của ông đạt tới tột đỉnh năm 1178, khi mà cháu ông, cậu bé Antôku được đưa lên ngôi vua.
Năm 1180, ngọn cờ chống đối đầu tiên chống lại dòng họ Hâykê đã được Yôrimaxa, một tướng cũ của dòng họ Ghêngi, giương lên. Mặc dù cuộc nổi dậy chưa chín muồi này không thành công, nhưng sự dũng cảm của Yôrimaxa đã khích lệ nhiều chiến tướng khác của dòng họ Ghêngi tổ chức lại lực lượng của mình ở những tỉnh phía đông Nhật Bản. Năm 1181, khi Kiyômôri chết, dòng họ Hâykê càng lâm vào thế phòng thủ trước dòng họ Ghêngi, và năm 1183, dòng họ Hâykê buộc phải từ bỏ Kyôtô (là kinh đô và là nơi đóng các sở chỉ huy của họ) và chạy về các tỉnh phía tây. Năm 1185, tại trận Đan-nô-u-ra, dòng họ Hâykê chấm dứt thời vàng son của mình.
Những chủ đề của Truyện kể Hâykê
Truyện kể Hâykê nói về một giai đoạn chín mươi năm từ 1131 tới 1221. Tuy vậy, nó tập trung chủ yếu vào giai đoạn mười tám năm, từ khi Kiyômôri đảm nhận chực vụ tể tương năm 1167, cho tới lúc các lực lượng của gia đình Hâykê bị tan rã tại trận chiến Đan-nô-u-ra.
Bố cục của truyện này hài hòa như một bản giao hưởng, bởi lời mở đầu (Cuốn 1, chương I, dòng 1 – 25) là khúc dạo đầu và lời bạc là khúc kết. Mặc dù bố cục cân đối, lời mở đầu và lời bạt có tương ứng với nhau, song chương kết của Cuốn 12 đã được đưa ra mà không có một kết luận dứt khoát. Cách làm trên là do sự hiểu biết có tính chất triết học và ảnh hưởng của đạo Phật đối với tác phẩm, còn cách dưới là do bắt nguồn từ sự diễn tả có tính chất lịch sử và hùng ca.
Bản dịch này coi lời bạt là một phần riêng, bởi lẽ nó không có vai trò nào khác hơn là kết thúc tác phẩm bằng một lời kết cao siêu bằng âm nhạc. Tiếng Nhật dùng trong lời bạt là Quan Thỉnh, tên một cuộc lễ, để cho phép một nhà sư được dạy những học thuyết cao siêu nhất (Cuốn 2, Chương XII). Lễ này được tổ chức cho các nhà sư chơi đàn tỳ bà sau khi họ đã hết sức thành thạo 188 chương của Truyện kể Hâykê, được một vị trưởng sư cho vinh dự đọc 11 chương đặc biệt; những chương này bao gồm cả lời mở đầu và lời bạt. Tuy nhiên trong tất cả các chương; thì những chương của lời bạt là quý nhất, và chỉ có thể giao cho những nhà sư chơi đàn tỳ bà nào có tài năng xuất chúng đọc mà thôi.
Phần chính của truyện được sắp xếp theo trật tự niên đại: tất cả các cuốn, trừ Cuốn 1 và Cuốn 12, đều được bắt đầu bằng ngày, tháng. Do kỹ thuật sắp xếp này, các sự kiện của Truyện kể Hâykê gắn bó với nhau chặt chẽ, song người đọc lại có thể gặp khó khăn trong việc theo dõi những nhân vật chính. Có lẽ không cần phải có sợi chỉ xuyên suốt trong truyện, bởi vì ngay cả những nhân vật quan trọng như Kiyômôri, Yôsinaka và Yôsichưnê cũng chỉ xuất hiện khi có liên quan tới những sự kiện lớn mà thôi.
Tác giả của truyện này hình như rất quan tâm tới số phận của dòng họ Hâykê. Thế nhưng Kiyômôri thì lại không để ý tới điều đó, trong khi con trai lớn của ông, Sighêmôri, có khả năng là đã nhận ra điều này. Kiyômôri ở đỉnh cao của danh vọng và quyền lực, đã ngạo mạn tới nỗi không nhìn thấy được cái thảm họa sẽ đổ lên đầu gia đình mình. Thật mỉa mai là, cái ngày tận số mà Sighêmôri đã tiên đoán được, thì lại được con và cháu của ông là Kôrêmôri và Rôkưđai chấp nhận, biết vậy mà họ vẫn cứ tiếp tục đi tới ngày sụp đổ của mình. Số phận nhà Hâykê là chủ đề chính của truyện này.
Tômômôri, em trai của Sighêmôri, cũng đã tiên đoán được. Mặc dù là một nhân vật thứ yếu, ông lại gắn rất chặt với chủ đề chính. Cả Sighêmôri lẫn Tômômôri đều nhận thức được số phận không tránh khỏi của gia đình mình. Tuy nhiên, Sighêmôri thì sẵn sàng phục tùng số mệnh, còn Tômômôri, là một chiến binh dũng cảm, thì chống tới cùng, cho tới trận Đan-nô-u-ra, ông nói rằng: “Đến bây giờ thì chẳng còn gì trên đời này mà ta không biết. Hãy cho ta kết thúc cuộc đời ở đây” (Cuốn 11, Chương XI). Đây là một câu nói khúc chiết và gây ấn tượng mạnh mặc dù Tômômôri không nói rõ là ông đã biết những gì. Tuy nhiên có thể đó là một sự chuyển tiếp từ một xã hội quý tộc sang một xã hội do các võ sĩ trị vì, hoặc giả là những bước thăng trầm bi thảm và hài hước của sự chuyển tiếp, hoặc là số phận đã quy định cho dòng họ Hâykê, hoặc giả đó là sự chấp nhận và phục tùng cuối cùng của ông đối với số phận ấy. Những điều mà ông biết là những điều mà toàn bộ truyện này có ý định nói tới.
Từ đỉnh cao của niềm vinh quang, người em rể của Kiyômôri đã ngạo nghễ tuyên bố: “Nếu ai không phải là người của dòng họ Hâykê thì người đó không phải là con người” (Cuốn 1, Chương IV). Bất chấp lời huênh hoang đó, dòng họ Hâykê vẫn cứ gặp phải một loạt thất bại ê chề. Những con sóng của ngọn triều xuống đã cuốn họ đi không thương tiếc tới nơi thảm họa. Bởi vậy, truyện này có thể được coi là một khúc bi tráng; thất bại đã được tiếng chuông chùa khua rung trong phần giáo đầu, tiên đoán, và được tiếng chuông chùa trong phần kết xót thương.
Chủ đề thứ hai là việc xuất hiện một giai cấp mới. Truyện này đã mô tả các võ sĩ dòng họ Ghêngi hoàn toàn khác với những quan chức của dòng họ Hâykê. Điển hình nhất trong các võ sĩ này là Yôsinaka, nổi tiếng về lòng can đảm và quyết tâm. Truyện này đã mô tả một cách sinh động lòng dũng cảm của ông và tạo ra một trong những đoạn hài hước hiếm có của câu truyện. Sau khi thắng Tọa quan Thượng hoàng Gô-Sirakawa một trận (Cuốn 8, Chương XI), Yôsinaka tuyên bố: : ”Nếu ta muốn, ta có thể trở thành hoàng đế hoặc Toạn quan Thượng hoàng. Thế những, làm hoàng đế thì ta phải thay đổi kiểu tóc thành kiểu trẻ con. Như thế thì ta không thích. Nếu làm Tọa quan Thượng hoàng thì ta lại phải gọt trọc đầu như hòa thượng. Điều đó thì ta lại ghét. Thế thì thử hỏi trở thành hoàng đế hay Tọa quan Thượng hoàng làm cái gì?”. Không để ý tới truyền thống và quyền lực, Yôsinaka là mẫu mực của các võ sĩ ở các tỉnh, vượt ra ngoài những quy định xã giao của xã hội triều đình.
Các võ sĩ dòng họ Ghêngi mà Yôsichưnê là mẫu mực, đại diện cho một giai cấp mới. Đó là những mối quan hệ dễ gây xúc động mạnh mẽ, gắn bó Yôsichưnê với những người dưới quyền ông và sau này trở thành cơ sở cho những nguyên tắc đối xử giữa các võ sĩ đạo.
Cuộc chiến giữa Môritôsi của dòng họ Hâykê, với Nôrichưna của dòng họ Ghêngi ở Ichi-nô-tani (cuốn 9, Chương XIII), cho thấy rằng luật võ sĩ đạo vẫn còn phát triển cho tới thời kỳ của Truyện kể Hâykê. Đối với một người lính ở tỉnh như Nôrichưna để được mọi người kính trọng, thì việc giết một đối phương ghê gớm và cắt được thủ cấp của hắn là rất quan trọng: cái đầu lâu ấy bảo đảm cho anh ta nhận được sự ngưỡng mộ không cùng. Nôrichưna không có ý thức hổ thẹn trọng việc lừa Môritôsi bằng một cái mẹo vặt, đó là giả vờ thân thiện với đối thủ rồi ra tay giết hắn.
Khi dòng họ Hâykê bỏ chạy về Kiusiu, hy vọng được tăng viện từ những người thân thuộc mà họ đã có quan hệ tốt đẹp, thì họ nhận ra rằng bạn đã biến thành thù (Cuốn 8, Chương IV). Bungô, một lãnh tụ địa phương đã từ chối không đáp lại những mệnh lệnh của dòng họ Hâykê, với lời bình như sau: “Thời xưa là thời xưa, còn thời nay là thời nay”.
Người ta đọc thấy chỗ này hoặc chỗ khác trong Truyện kể Hâykê cuộc đụng độ giữa chuẩn mực đạo đức cũ và mới. Mặc dù Kiyômôri là người đầu tiên trong giới võ sĩ đạo kiểm soát được chính quyền, nhưng ông đã dẫn dắt bộ tộc mình tới sự đổ vỡ, do việc liên kết gia đình mình với giai cấp quý tộc đang suy đồi. Trong truyện, ông bị coi là người đã xúc phạm tới luật của triều đình, cũng như của nhà Phật, mặc dù ông luôn coi mình là bầy tôi trung thành của triều đình và là một tín đồ Phật giáo ngoan đạo. Dòng họ Hâykê là dòng họ quý tộc triều đình cuối cùng, trong khi dòng họ Ghêngi là những người lãnh đạo của một giai cấp mới, võ sĩ đạo, những người hăm hở tìm kiếm một trật tự mới.
---
(1) Thứ đàn bốn hoặc năm dây này được truyền từ Ba Tư qua Trung Quốc và Triều Tiên vào Nhật Bản. Một trong những chiếc đàn tỳ bà cổ nhất được giữ ở điện Sôxô, nhà kho của hoàng gia ở Nara, có hình con lạc đà.]
(còn tiếp)
Bookmarks