Nguồn: Việtnam và chúng ta
* Sang đến xứ người cũng không biết học hỏi(Phan Chu Trinh, Đạo đức và luân lý Đông Tây, năm 1925)
Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn(1) với Nhật Bản, thấy họ tiến thì nức nở khen, chứ không khi nào chịu xét vì sao họ được tiến tới như thế. Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh hay họ còn trau dồi đạo đức sửa đổi luân lý mới được như ngày nay? Tôi rất lấy làm lạ cho những người đã qua Nhật không đem cái hay cái tốt về cho dân nhờ mà chỉ làm giàu thèm tính nô lệ! Hay là người mình như kẻ đã hư phổi rồi cho nên một nơi có thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng?! Lấy lịch sử mà nói thì dân tộc Việt Nam không phải là không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay(2) mà vẫn còn mê mê muội muội bịt mắt vít tai không chịu xem xét không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người.
(1) cùng theo đạo Khổng, cùng sử dụng chữ Hán.
(2) tính tới thời điểm tác giả nói trong bài này nước Pháp mới đô hộ nước ta 60 năm.
* Học không biết cách mà bỏ cũng không biết cách(Trần Trọng Kim, Nho giáo, năm 1930)
Những người theo Nho học xưa nay thường hay trọng cái hình thức bề ngoài thái quá để đến nỗi tinh thần sai lầm đi rất nhiều. Người mình lại cứ quen một mặt thuận thụ(1) theo cái khuôn nhất định của tiền nhân để lại, việc phải trái hay dở thế nào cũng chỉ ở trong cái khuôn đó chứ không chệch ra ngoài được, sự phê bình phán đoán càng ngày càng hẹp lại, không biết còn có tư tưởng nào nữa.
Đến nay thời cục đã biến đổi, khoa cử bỏ đi rồi, sự học cũ không phải là cái cầu ở con đường sĩ hoạn nữa, thì Kinh Truyện xếp lại một chỗ mà đạo thánh hiền cũng chẳng ai nhắc đến.
Sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì ngỡ mình nông nổi không suy nghĩ cho chín chưa gì đã đem phá hoại đi, thành thử cái xấu cái dở của mình thì vị tất đã bỏ được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội ta được bền vững mấy nghìn năm. Cái tình trạng nước ta hôm nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra biển, không biết phương hướng nào mà đi cho phải.
(1) xuất theo, tự nguyện chấp nhận.
* Nặng tính hiếu kỳ(Dương Quảng Hàn, Học sao cho phải đường, Hữu Thanh, năm 1921)
Cái tính hiếu kỳ là cái bệnh chung trong lối học của ta, xưa kia học chữ Tàu, đọc sách Tàu, lâu dần quá mê chuộng mà khinh rẻ những cái của mình. Cái gì của Tàu cũng cho là hơn mà chịu khó nghiên cứu, cái gì của mình cũng cho là dở là kém không thèm nhìn tới. Thành ra núi sông đình miếu nước Tàu thì biết mà núi sông đình miếu nước mình thời không hay, danh lam thắng tích bên Tàu thì rõ mà danh lam thắng tích nước mình thì không tường, lịch sử địa dư nước Tàu thì thiệp liệp(1), mà lịch sử địa dư nước mình thời mịt mù, phong tục nhân vật nước Tàu thời tường tất mà phong tục nhân vật nước mình thời tối tăm. Mà có phải mình thiếu gì cái đẹp cái hay, cái đáng ngắm...
(1) cũng có hiểu ít nhiều.
* Thông minh rút lại hóa ra tinh vặt(Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam phần nhiều là thông minh, song những người có trí tuệ lỗi lạc thì xưa nay vẫn hiếm. Nhiều khi từ thông minh không có chỗ dùng thuận tiện thường lại biến ra não tinh vặt. Trí nhớ của người Việt Nam rất nẩy nở, đến não tường tượng thì hoàn toàn bị não thực tiễn làm tê liệt. Não thực tiễn này mở nguồn cho nhiều đức tính khác, cho nên người Việt Nam hiếu học không phải vì khát hiểu biết mà chỉ vì mong một địa vị ưu thắng trong xã hội: Học đối với người Việt.không phải để thỏa mãn một khát khao trí tuệ, mà chính là để làm kế mưu sinh.
* Bài "Nhân nào quả ấy" - phiếm luận của Vương Trí Nhàn
Vào thời buổi sách hay như củi quế gạo châu, sách phê bình lại càng hiếm, những trường hợp như thế quả đáng quý. Nó chứng minh một điều, độc giả không bao giờ quay lưng lại với sách hay, dẫu có thuộc loại “khó nhai” như sách phê bình đi nữa.
Từ trước tới nay trong làng văn, các nhà phê bình luôn phải sống trong thành kiến. Người ta cho rằng họ là những người khắt khe, tác phẩm tâm huyết của người này người kia bị họ đưa ra cân đong đo đếm, mà hình như chê luôn nhiều hơn khen. Rồi còn có một số ít các “đại gia” phê bình luôn áp đặt quan điểm nhận định của mình lên tác phẩm, “lái” người đọc hiểu tác phẩm, tác giả theo hướng chủ quan của mình (trên thực tế, mức độ thuyết phục của các “đại gia” này khá cao, đủ để ức chế sự suy nghĩ khác đi của một số đông độc giả). Nghề phê bình đòi hỏi kiến thức sâu rộng, luận lý thuỷ chung, khoa học, nên có lúc, cảm giác như họ “bắt nạt” được người sáng tác vốn ngẫu hứng, được chăng hay chớ… Nói tóm lại, các nhà phê bình ít khi được chào đón mặn mà, trái lại, còn luôn bị dè chừng, nghi kỵ.
Cuộc sống hiện tại trăm nghìn lo toan, ai hơi đâu lo chuyện người khác, cũng chả dại gì rước phiền toái vào thân mà đi khen chê này nọ. Thế nên, bảo sao không vắng bóng phê bình, phê bình im hơi lặng tiếng, ít tác phẩm phê bình hay, ít nhà phê bình giỏi. Không như sáng tác, viết phê bình rất dễ khô khan, không hấp dẫn, lại hay dẫn giải dài dòng, đọc dễ mệt, dễ nản. Thời đại bùng nổ thông tin, cả thế giới nằm sau một cú nhấp chuột, ít ai để tâm nghiền ngẫm một cuốn sách khô khan, mà nhiều khi đọc xong lại thấy không hợp ý mình, lại càng chán. Phải đổi mới thôi, để thuyết phục thời đại mới. Phê bình phải bám sát thời sự, cả hình thức lẫn nội dung.
Với Nhân nào quả ấy, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đáp ứng đòi hỏi rất thiết thực đó. Ông đã có những cuốn sách được tái bản nhiều lần, như: Cây bút đời người, Những cánh hoa dại, Cánh bướm và đóa hướng dương, Ngoài trời lại có trời… viết về đời sống văn học trong và ngoài nước, tự cổ chí kim, nhưng chủ yếu bám sát văn học cận hiện đại. Mỗi người một tạng. Khác với phần lớn các nhà phê bình chú tâm nghiên cứu học thuật, thi pháp, cấu trúc…, Vương Trí Nhàn thiên về nghiên cứu khám phá những khía cạnh rất “người” ở mỗi nhà văn, từ đó khúc xạ sự nghiệp sáng tác của họ. Vì thế, ông không quá lệ thuộc vào phương thức nghiên cứu giáo điều, duy lý ngay từ những ngày xưa cũ khi ông quyết định bước chân vào nghiệp viết lách. Cái ngả ông chọn khá hấp dẫn, có thể nói hấp dẫn nhất trong các ngả nghiên cứu phê bình: con người và văn hóa. Ông phân tích tâm lý nhà văn khi sáng tác, soi rọi những ngõ ngách trong tâm hồn nhà văn, rồi từ đó tìm đường dẫn quy chiếu ý nghĩa thực chất tác phẩm của họ. Muôn mặt đời văn đã được ông “theo dõi”, “bắt chụp” những góc độ thú vị, ít ai ngờ tới, với hệ quả kéo theo là rất nhiều nhận định sâu sắc, mới lạ về tác giả tác phẩm, về vị trí vai trò của họ trong văn học sử. Diện mạo văn học đương thời được ông phác thảo khá hồn cốt, có thể thiếu sức nặng của sự công phu, nhưng luôn công tâm và thuyết phục. Đồng thời, những trang viết của ông thấp thoáng hướng về một tầm nhìn văn hóa.
Ý định đó của ông hé lộ trực tiếp trong Nhân nào quả ấy. Đó là tập hợp các bài viết của ông về các hiện tượng trong đời sống, không cao xa lạ lẫm gì, vẫn là những sự việc vẫn diễn ra quanh ta, là một phần cuộc sống thường nhật, và mỗi người đều ít nhiều thường xuyên nhắc đến chúng. Về những ngày đã qua (Nỗi niềm những người muôn năm cũ), về những thói quen thành nếp (Nếp sống nếp nghĩ), về phương thức tổ chức vủa người Việt Nam và những hệ lụy xung quanh nó (Di sản và lễ hội), về Muôn mặt đời thường trải dài từ nông thôn đến thành thị... Gần gũi lắm, những bực mình về giao thông mắc cửi, bức xúc điểm lại các thói hư tật xấu của con người lẫn những cái tạp nham kém chất lượng của sản phẩm. Nhưng nếu hầu hết chúng ta chỉ biết than phiền và tặc lưỡi chấp nhận, để mình quen dần đi đến mức bàng quan mà không để tâm suy xét đến căn nguyên của vấn đề, để mình dần thành một bộ phận trong cái guồng máy xã hội vô tri vô giác – thì Nhân nào quả ấy thực sự là một liều thuốc đắng nhắc nhở ta nhìn lại mình, nhìn lại thực tại mình đang sống. Hình thức phiếm luận của cuốn sách là một mảnh đất hào phóng giúp tác giả mặc sức bày tỏ những suy nghĩ, đánh giá của mình về văn hóa đương thời, quan trọng hơn, nó là cái cách hiệu quả để ông phác thảo những vấn đề then chốt từ những lượm lặt ý tưởng chi tiết mà tránh được sa vào lối thuyết giáo định hướng nặng nề. Ông dẫn ra các hiện tượng, chỉ ra mặt khách quan, kiểu như Đời là thế, tôi theo thế, anh theo thế, và cuối cùng cả xã hội thế này đây. Hãy xem lại những gì đang diễn ra xung quanh anh, mà anh cũng tham gia vào, và hãy tự hỏi ta đang ở đâu, đang ở tầm nào, đang có vai trò gì trong cuộc sống; và nếu ta như thế, thì dân tộc ta, văn hóa ta ra sao? Nhân nào quả ấy, đó là một lời cảnh báo, hay lời kêu gọi từ bỏ thái độ bàng quan thỏa hiệp, để tự làm mới mình, nỗ lực vì một xã hội văn minh, có bản sắc!
Sẽ có không ít người phải giật mình với quyển sách này, trăn trở với những gì viết ra trong đó. Có thể có người cho rằng tác giả của nó có quan trọng hóa vấn đề lên chăng, bởi chúng ta vẫn sống, xã hội ta nhìn chung được xem là đang phát triển tăng vọt, đời sống cải thiện rõ rệt. Song nếu là một công dân có trách nhiệm, thì ta phải nhận rằng kinh tế thì ăn no mặc ấm tiến tới ăn ngon mặc đẹp; còn văn hóa, chính là hội nhập thế giới với tâm thế tự trọng, tự hào. Quả thực còn rất nhiều việc phải làm, rất nhiều việc phải xếp đặt lại, vì một nền văn hóa tiên tiến, có hậu.
* Bài "HÈN VÌ MIẾNG ĂN ! HẠI NHAU VÌ MIẾNG ĂN!" của Vương Trí Nhàn.
Phan Bội Châu trong thời gian mười lăm năm cuối đời, sống ở Huế (1925-1940), có để lại một cuốn Tạp ký. Lúc này ông không còn tâm thế của người đứng ra vận động cứu nước mà thiên về cái nhìn của một trí thức từng trái, đau lòng trước tình trạng lạc hậu của đất nước. Dưới đây là một đoạn ông nhận xét về không khí xô bồ nhếch nhác thường thấy phổ biến ở lễ hội của người Việt – miếng ăn quá to, người ta chỉ nghĩ đến ăn, tranh giành ngôi thứ cũng chỉ vì ăn :
Tế có nghĩa là giao tế (1) vì nó ở trong phạm vi nghi lễ. Quá lắm thì xa xỉ, không đúng mức thì bủn xỉn, đều chưa hợp lễ.
Dân gian tế tự, nghi thức không đủ, mà còn đùa bỡn vật mọn, cả nước như cuồng. Trước lúc chưa tế thì mồm nói cấm kỵ mà đòi uống tìm ăn. Nghe xướng hai tiếng “ lễ tất “, ai nấy đều nhao nhao. Bưng mâm thì ăn ngay trước cửa thần, rót rượu thì uống ngay trước mặt thánh. Đến khi dọn cỗ, trên các quan viên, dưới đến bình dân, ngồi đứng lung tung. Sau khi uống một hai chén rồi, Giáp thì đánh Ất, Ất thì đánh Bính, chửi mắng rầm rầm. Thậm chí chia thịt chưa đều thì đua sức đua hơi ngay ở đấy, để chia tôn ti, phân biệt thứ bậc.
(1) đi lại thù tạc mời đãi nhau
Theo Trương Hữu Quýnh Tìm hiểu những mặt hạn chế và tiêu cực trong di sản truyền thống của dân tộc ta đầu thời Nguyễn, Gia Long từng có một đạo dụ liên quan đến tình trạng tế lễ ở các làng :
Vào đám hát xướng nhiều thì vài mươi ngày đêm, ít thì tám chín ngày. Chèo thuyền hát hỏng ăn uống xa hoa, tiêu không tiếc của, rồi lại đua thuyền múa rối, đủ mọi thứ trò. Lại kén lấy trai tơ gái trẻ đánh cờ đánh bài. Tưởng là thờ thần, thực là để thỏa lòng dục. Ngân quỹ hết thì sinh ra đóng góp, cầm bán ruộng công.
Trong các tiểu thuyết của các nhà văn tiền chiến,lễ hội cũng thường hiện ra như một khung cảnh ồn ào luộm thuộm và mang nhiều tính cách tầm thường. Trong tiểu thuyết Lan và Hữu, Nhượng Tống sau khi miêu tả cảnh đi hội chen chúc hỗn độn, lại đặc biệt than phiền về tình trạng bẩn thỉu mất vệ sinh ở các chùa
Nếu tôi có tội phải người ta bắt đi đầy thì đầy tôi ra Côn Đảo ba năm tôi không sợ bằng đầy tôi nơi cửa chùa Thiên Trù suốt ba tháng hội
Thật không khó gì nếu cần chứng minh cho tính đúng đắn của các nhận xét trên. Báo chí thời nay cũng đã hé ra cho thấy tình trạng tương tự. Vấn đề không phải chỉ là việc tổ chức luộm thuộm, người xe chen lấn ùn tắc, mà còn ở cảm giác dung tục mà con người thời nay mang tới lễ hội. Thiếu lòng thành kính tối thiểu, người ta đi chỉ cốt để cầu lợi.
Hội đền Hùng mùa xuân năm 2002 thường được ghi nhận với việc làm ra một chiếc bánh giày 1,8 tấn, việc này về sau đã được đưa vào sách kỷ lục Guinnes. Nhưng đây là số phận của vật lễ thiêng liêng đó. Ngày 9-3 âm lịch trên đường chuyển đến nơi hành lễ, chiếc bánh bị cả trăm người xúm quanh xô đẩy dằng xé. Bà con đi hội đã tự tiện thụ lộc. Trong khoảng hơn một giờ đồng hồ, từ 10 đến 11.30 h, chiếc bánh bốc hơi hoàn toàn.
Báo Tiền Phong ra ngày 22-4-2002 cho biết như vậy. Theo chỗ tôi đọc được chỉ riêng báo Tiền phong, ngoài ra không có báo nào đưa sự kiện “ hi hữu “ này. Về sau cũng không ai nhắc tới, coi như không có.
TT&VH 5-6-07
Bài "SUY NGHĨ NÔNG NỔI, TÍNH KHÍ THẤT THƯỜNG" của Vương Trí Nhàn.
Cuộc sống đô thị con người đô thị ở nước Việt Nam khi mới bước sang thời hiện đại là phần nội dung chính được miêu tả trong truyện dài Thiếu quê hương (1940) của Nguyễn Tuân. Nhưng chương cuối sách lại có đoạn tác giả cho nhân vật chính về một làng quê là làng Xuân Phả, Thanh Hóa,bàn chuyện đưa một đoàn người làng này qua San Francisco bên Mỹ múa tuồng. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh người Việt trong cái làng quê cố hữu của họ, cả người lẫn cảnh không khỏi có phần lèm nhèm nhếch nhác, và khi bước vào sinh hoạt chốn công cộng thì cách cư xử của cá nhân thay đổi thất thường rất khó xác định.
Bảo rằng con người có ý thức về mình ư, đúng lắm ? Trước mặt nhân vật từ trên tỉnh về, một người làng có tài làm nghề và đang được gọi để cùng đi theo đoàn múa tuồng ra vẻ hùng hổ, muốn nhân chuyện người ta cần đến mình mà lên mặt với đời: “ Đi một chuyến cho biết đó biết đây, và chuyến này chúng ông đi Hoa Kỳ về mà đứa nào ở làng này còn giở lối hà hiếp tranh chỗ ngồi ngoài đình với chúng ông, ông đánh tan xương cho mà xem ”.
Anh ta vừa nói xong, mấy người chung quanh hoa chân múa tay dấm dẳn phụ họa.
Thế nhưng chỉ cần các cố lão lên tiếng đe “ Đừng có mượn chén mà nói láo “ là anh ta xun vòi ngay. Lại còn không biết xấu hổ, bưng mặt khóc hu hu,” lạy các cụ con khổ lắm !‘
Cái chất nông nổi thất thường này của người Việt từng được nhiều người nước ngoài nêu lên, như một đặc tính cản trở họ trong bước đầu đến gặp gỡ giao thiệp, cũng như quan hệ lâu dài.
Theo trích dẫn của Hữu Ngọc trong một bài viết in trong sách Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam ( Hà Nội 1963 ), một sĩ quan Pháp từng nhận xét “ Họ hiền lành vô tư lự, nhút nhát thích khoe khoang dễ bốc mà xỉu cũng nhanh, thường có tâm lý ăn may của người chơi bạc, nhiều khi biến thành lập lờ hai mặt “.
Một nhà văn là Jean Hougron cho rằng người Việt “ nhu nhược không có cá tính, biển lận, thích tố giác “.
Một người khác là Palazzoli thì chỉ ra hàng loạt những đặc tính mâu thuẫn : một đằng là lịch thiệp tế nhị, lãng mạn và đa cảm ; mặt khác là nửa kín nửa hở, dè dặt, dò xét. Mở rộng hơn là “một thiên hướng đa nghi, mưu mẹo, một thói quen lúc nào cũng thích chống đối, rồi lại nhanh chóng buông trôi chấp nhận “.
Tạp chí Bách Khoa số 73 ra ở Sài gòn 1960, từng trích dẫn nhiều ý kiến sâu sắc của linh mục F Parrel về Thanh niên Việt Nam hiện nay.Theo ông,ở họ trực giác lấn suy tưởng trừu tượng, chủ quan lấn khách quan … Tâm hồn ít xúc động về vật và người. Chiến tranh làm cho người ta không biết tới người khác. Họ phải tự động tạo ra mọi phương tiện tự vệ. Tâm hồn họ khô rắn lại vì đời sống bất trắc.
Trong Văn minh Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên cũng đã ghi nhận đặc tính đó của người Việt, và ông lý giải thêm ở đây có vai trò của một đời sống quá gian khổ mà luôn luôn bấp bênh ; hơn thế nữa, ở đây có cả vai trò của yếu tố thời tiết (Xem một số trích dẫn ở mục Người xưa cảnh tỉnh TT&VH hàng tuần )
Gần đây hơn, trên báo Tiền phong số ra 1-1006, bạn Nguyễn Tất Thịnh nêu lên hàng loạt nhược điểm có tính cách nửa vời của người đương thời
- Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng – vừa đe hàng tổng đã sợ thằng mõ
- Chưa biêt nghề đã dạy thợ, vừa dạy thợ đã chán nghề
- Chưa làm đã mệt vừa mệt đã kêu
- Chưa vui đã cười vừa cười đã khóc
– Chưa đói đã ăn, vừa ăn đã bỏ dở
– Chưa tỉnh đã say, vừa say đã làm càn
– Chưa có tài đã đánh mất tâm, vừa có chút tâm đã bài xích tài
v.v..
Theo bạn Nguyễn Tất Thịnh lối cư xử này có nguy cơ trở thành tập tính của cộng đồng.Tức là một nếp sống nếp nghĩ ổn định, khó thay đổi.
TT&VH 12-6-07
Bài "MỘT QUAN NIỆM ĐƠN SƠ VỀ THẾ GIỚI " của Vương Trí Nhàn.
Sự đơn điệu nghèo nàn là cảm giác chính còn lại trong Nhất Linh sau khi dự Hội chợ hàng VN 1934 mở ở Nhà Đấu xảo Hà Nội
Trong bài tường thuật trên Phong Hóa số ra 30-11-1934,người đứng đầu văn đoàn Tự Lực viết :”Mấy gian hàng Hải Dương Nam Định vẫn như mọi năm không có gì tiến bộ.Thăm gian hàng Trung Kỳ, người ta cảm thấy như sống lùi lại mười năm trước bởi chỉ có ít đồ gỗ nét chạm non nớt.Đồ đồng của ta có lẽ nghìn vạn năm nữa không thay đổi. Từ cái thau cái mâm cho đến cái đỉnh thứ nào cũng nguyên như cũ, hình như đổi mới nó đi là một cái tội vậy. Đồ sứ Bát Tràng men trông cũng khéo, chỉ tiếc rằng kiểu không đẹp. Phần nhiều là bắt chước Tàu.“.
Những nhận xét này có thể áp dụng cho toàn bộ thế giới đồ vật mà Việt sáng tạo ra để phục vụ đời sống của chính mình. Một đôi dép để đi ư ? Ở Bắc bộ, nó chỉ là một chiếc mo cau hoặc miếng da, có thắt một nút trồi lên vừa để xỏ một ngón chân. Trong khi người dân nông thôn xưa chỉ đi chân đất thì một đôi dép như thế còn là xa xỉ, và chỉ những dịp hội hè người ta mới dám sử dụng. Một cái diều ư? Chỉ là mấy tờ giấy phết vội trên mấy nan tre. Một cây sáo ư, chỉ là một ống tre có khoét mấy lỗ sơ sài. Nếu chúng ta biết rằng trên thế giới này, không chỉ Trung Quốc Nhật Bản mà cả các nước phương Tây những cái diều bộ sáo có cấu tạo phức tạp tinh vi như thế nào thì người ta phải tự trách rằng sao dân mình dễ bằng lòng với những gì làm ra,tức dễ dừng lại trên đường sáng tạo đến thế.
Thời nay, khi làm hàng xuất khẩu, người mua các nước cũng thường chê hàng Việt mẫu mã đơn giản, có học lỏm được cái gì của người khác thì cũng chỉ loay hoay ở vài cái lặt vặt mà không biết khai thác hết những khả năng đa dạng có thể có.
Chẳng những chúng ta rất ít phát minh mà nhìn vào cái đã phát minh ra, thấy không vượt khỏi tình trạng bột phát ban đầu. Các ý tưởng không được hoàn thiện và đẩy tới cùng. Nguyễn Văn Vĩnh sớm nói thẳng là trước khi học của nước ngoái, những cái nhà của chúng ta quá trống trải và chẳng có gì mà bày, ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề, nếu cố trau chuốt thì lại phô ra một mỹ cảm cầu kỳ vụn vặt.
Ở đồng bằng bắc bộ, ngoài nghề trồng lúa nước, gần như không có nghề làm vườn. Các giống vật nuôi trong nhà không đặc biệt, như con chó Vịệt, đặc tính chính của nó là sự tầm thường. Không có con đường làng nào là thẳng, con đường nào cũng cong queo vẹo vọ.
Tự bằng lòng với cuộc sống tự nhiên của mình ở các làng quê, người Việt gần như từ bỏ khả năng tổ chức lại cuộc sống một cách có suy nghĩ ở các đô thị.
Cho đến cả trong cách tổ chức xã hội, trí tưởng tượng nghèo nàn cũng níu kéo chúng ta lại.
Thần thánh trong các truyện thần thoại cổ tích của ta quá gần người và cũng nghèo như người, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Còn những ước mơ của chúng ta thì sao ? Ngày xưa, bao chàng trai bỏ làng ra đi chống ngoại xâm, rút cuộc “ súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa “ ( thơ Nguyễn Đình Thi ) mơ ước lớn nhất là quay về làng tiếp tục đi cày và cưới được cô thôn nữ.
Còn hôm nay,có một câu chuyện dân gian đang được lưu truyền rộng rãi. Một thanh niên Nhật hỏi người Việt cùng tuổi với mình là mơ ước gì thì được trả lời là mơ ước có cái Honda để đi, nhà có cái tủ lạnh Hitachi, cái máy giặt Sanyo để dùng. Nói chung là ao ước dân Nhật xài đồ gì thì mình có đồ đó để xài.
Còn người thanh niên Nhật khi được hỏi lại chỉ nói gọn một câu là ước sao giỏi giang hiểu biết để thực hiện được tất cả những ước mơ của các bạn Việt cùng tuổi.
Câu thơ của Chế lan Viên “ Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp – Giấc mơ con đè nát cuộc đời con “ không chỉ đúng với con người thời tiền chiến mà đúng với người Việt gần như suốt thời quá khứ,không chỉ con người bình dân mà cả những tầng lớp tinh hoa.
TT&VH 19-6-07
*Bài "BỘT PHÁT HỒN NHIÊN" của Vương Trí Nhàn.
“ Người Việt chúng ta sống ở trong nhịp điệu trong thanh âm nhiều hơn trong tư tưởng. Tâm lý ấy có giống với tâm lý trẻ con. Trẻ con thường vẫn ca hát luôn miệng mà chẳng mấy khi quan tâm đến ý nghĩa lời ca “.
“ Văn hóa Việt Nam quý ở phần tình cảm hơn phần tư tưởng, ở phần tiềm thức hơn ở phần hữu thức “.
Hoài Thanh đã viết như vậy trong bài Có một nền văn hóa Việt Nam (1946)
Năm 1951, trong tập sách nhỏ Mấy vấn đề nghệ thuật gồm mấy chục trang mỏng, in bằng trên dó, - và sau này không thấy in lại nữa – Nguyễn Đình Thi cũng nhấn mạnh tính hồn nhiên tự phát của văn hóa Việt Nam. Chẳng hạn theo ông, âm nhạc ta thiếu hẳn phần hòa âm là phần đòi hỏi trí tuệ. Với ông, lục bát như con sông miên man chảy, nó dễ tràn bờ, và thường phung phí sức lực.
Lùi về trước nữa, những Trần Trọng Kim,Phan Khôi, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên … đều đã viết về phương diện này của tính cách Việt với tinh thần phê phán. Rằng chúng ta nông nổi nhẹ dạ. Ta dễ dãi chấp nhận của người mà không lo tìm lấy tư tưởng của mình. Ta có ngay cách tháo gỡ mỗi khi gặp nước bí, nhưng lại rơi vào bế tắc trong những sứ mạng lớn. Riêng hai câu thơ Tản Đà “ Dân hai nhăm triệu ai người lớn – Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con “thì khi đã vào sâu trong trí nhớ ai, nó ở hẳn đấy không ra nữa, bởi ai cũng giật mình thấy đúng.
Mặc dù trong lý lịch trích ngang, Kiều là nhân vật lấy từ một truyện Trung Hoa song khi cần nhắc đến một nhân vật văn học “ đặc chất Việt Nam “ người ta gọi tên Kiều. Tại sao ? Tôi nghĩ ở đây các thế hệ bạn đọc không sai. Nhà có hoạn nạn, chẳng tìm hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao, Kiều chỉ khóc lóc rồi đòi đi bán mình. Lời khuyên Từ Hải ra hàng là cả một trọng tội … Tất cả chỉ vì Kiều đặt tình cảm lên trên mà thiếu hẳn sự suy tính cần thiết trước mọi diễn biến cuộc sống.
Trong một bản dich cuốn Trung Hoa đất nước con người ra tiếng Việt, tôi đọc thấy Lâm Ngữ Đường viết rằng nếu cần tổng quát về đức tính của người Trung Hoa, thì đó là công thức “sự ưu việt của tâm linh chiến thắng hoàn cảnh vật chất“. Nhưng ở một bản dịch khác,câu trên lại chuyển thành “phần nhiều những tính cách của người Trung quốc được xây dựng trên nền tảng tri thức khá vững vàng “. Tiếp đó người ta giải thích thêm “ người Trung Hoa là một trong những dân tộc thông minh nhất thế giới”. Họ “ biết chiến thắng hoàn cảnh vật chất bằng sự ưu việt của trí tuệ “, hay nói cách khác,“trong văn hóa Trung Hoa, sự tôn trọng trí tuệ và tầng lớp trí thức trở thành một hằng số văn hóa “.
Tôi không có bản gốc để kiểm chứng song giữa hai bản dịch, thấy tin ở bản thứ hai hơn. Người Trung quốc đặt trí óc vào công việc trong khi chúng ta đặt vào đó tình cảm. Cách cư xử như Tố Hữu viết“ Trái tim lầm chỗ để trên đầu “ không chỉ đúng với nhân vật nàng Mỵ Châu trong truyền thuyết xưa mà đúng với người Việt nói chung, ngay trong sinh hoạt hàng ngày lẫn cả khi cần giải quyết việc “quốc gia đại sự “. Đặc biệt là mãi đên hôm nay học thuật của ta vẫn ngoi ngóp tẻ nhạt không sao trở thành một thứ tự ý thức sáng suốt đồng hành với mọi tiến bộ xã hội.
Đành nghĩ đó đã là cái bản sắc cái trình độ riêng của mỗi giống người, không phải bỗng chốc thay đổi được.
Sự vô tâm – đúng hơn sự hạn hẹp của tầm nhìn, sự dễ dãi trong thích ứng, sự ngại ngùng biếng nhác trong suy nghĩ,- tất cả những biểu hiện đó làm hại tới sự phát triển. Dù rất thiện chí thì cũng phải nhận như vậy. Thế nhưng đáng lẽ phải xót xa lo lắng thì đằng này vẫn xảy ra một tình trạng ngược lại. Nhiều người thích lý tưởng hóa cái thói quen trẻ con đó. Họ không tìm cách nâng mình lên để phù hợp với nhu cầu mà sẵn sàng để sự nông nổi níu chân. Và “ – ma đưa lối quỷ đưa đường - lại tìm những chốn đoạn trường mà đi “, câu Kiều xưa vẫn có sức ám ảnh như một tiếng sáo tiền kiếp.
TT&VH 26-6-07
Bookmarks